NHẤT TÂM NIỆM PHẬT - CẦU SANH TỊNH ĐỘ


Join the forum, it's quick and easy

NHẤT TÂM NIỆM PHẬT - CẦU SANH TỊNH ĐỘ
NHẤT TÂM NIỆM PHẬT - CẦU SANH TỊNH ĐỘ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Đăng Nhập

Quên mật khẩu

Latest topics
» PHÓNG SANH - 2013
by Quảng Chánh Fri 20 Dec 2013, 4:38 pm

» HÌNH ẢNH LỄ VÍA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ 17/11 QUÝ TỴ
by Quảng Chánh Fri 20 Dec 2013, 4:36 pm

» Thông Báo: LỄ VÍA PHẬT A DI ĐÀ 17/11 QUÝ TỴ
by Quảng Nghiêm Tue 10 Dec 2013, 12:02 pm

» Chuyến Hành Hương Đà Lạt Của Các Huynh Muội!
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:31 pm

» CHÙA QUÁN ÂM TỊNH THẤT - ĐỨC TRỌNG - LÂM ĐỒNG
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:17 pm

» VĨNH MINH TỰ VIỆN - ĐẠI NINH
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:13 pm

» CHÙA PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ - ĐẠI NINH
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:07 pm

» CHÙA DƯỢC SƯ - ĐẠI NINH
by Quảng Nghiêm Tue 03 Dec 2013, 4:21 pm

» Hình Ảnh Phóng Sanh Thứ Năm 21/11/2013
by Quảng Nghiêm Thu 21 Nov 2013, 2:17 pm

ĐẠI LỄ PHÓNG SANH CHÙA TỪ ÂN 2013
CHUA TU AN.gif
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Images?q=tbn:ANd9GcRlMejTGgNz5wM3qlaZDrddg9nSkmwZOPNo7da1-ROruqVGf_Uunw
“Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc, trong thế giới đó có Đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp”.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Images?q=tbn:ANd9GcSC-TGWiq75j0XxMcwvEuWsupTz51ROY8H3KC2gVO8PrgEl7kis
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi; và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Images?q=tbn:ANd9GcT_Cwwvbt-KXrgxf2JVdbPARkRNNKUP4UnXvofNx14x0rBsPzis
Nầy Vi-Đề-Hy, bất cứ chúng sanh nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì cảm ứng những năng lực tổng trì không thể nghĩ bàn.
NAM MÔ ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Phoca_thumb_l_07
Nếu tâm của chúng sanh, nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hay tương lai, nhất định sẽ thấy được Phật, cách Phật không xa, không cần dùng phương pháp nào khác, thì tự tâm được khai ngộ, như người ướp hương, thì thân có mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm.
NAM MÔ ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Images?q=tbn:ANd9GcQrZzV4LYT1XvW4d6tDrJGwWBz0xQx7kD-bmMv9euFy2pMsmu_4
Danh hiệu Phật chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A-Di-Đà tức là Pháp-giới Tạng-thân, có lực dụng thu nhiếp và hiện Pháp thân của ba đời mười phương chư Phật.
NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Images?q=tbn:ANd9GcQmVlwzrsEvtHL5UZf5-xLsQ7VvFMcCAySNw66pZ2sTMa7h1Qo6_A
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp không gián đoạn, thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA!

Go down

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Empty THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA!

Bài gửi by Quảng Nghiêm Tue 20 Sep 2011, 8:14 pm

1. Tôn giả Xá Lợi Phất,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Ca-chi$C3$AAn-di$C3$AAn

Đứng đầu thánh chúng về trí tuệ (trí tuệ đệ nhất). Ngài là người nước Ma-kiệt-đà, con của một gia đình Bà-la-môn giàu có, tiếng tăm. Lớn lên, ngài cùng với người bạn thân là Mục Kiền Liên theo tu học với đạo sĩ San Xà Da, rất nổi tiếng ở thành Vương-xá (kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà). Vốn thông minh tài trí hơn người, chẳng bao lâu hai người đã đạt được trình độ tương đương với thầy; tuy vậy, hai người vẫn không bằng lòng với sở đắc của mình, cho nên đã giao hẹn cùng nhau rằng, hễ ai chứng đạt được đạo lớn trước thì phải chỉ bảo ngay cho người kia; hoặc giả, ai tìm được minh sư trước thì phải dìu dắt người kia. Vào năm thứ hai sau ngày thành Đạo, đức Phật dẫn giáo đoàn đến hành hóa tại địa phương kinh thành Vương-xá. Tại đây, được sự hướng dẫn của đại đức A Xã Bà Thệ (một trong 5 vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật), Xá Lợi Phất cùng Mục Kiền Liên đã xin xuất gia làm đệ tử Phật, và chẳng bao lâu hai vị đã trở thành những bậc thượng thủ của giáo đoàn. Chính tôn giả Xá Lợi Phất là người đã được Phật ủy thác trông coi công trình xây cất tu viện Kì-viên ở thủ đô Xá-vệ của vương quốc Kiều-tát-la. Lúc đó, bước chân hoằng hóa của Phật chưa đặt đến nơi này, nhưng nhờ vào trí tuệ siêu việt và biện tài vô ngại của mình mà tôn giả đã thu phục biết bao nhiêu vị đạo sĩ ngoại đạo lỗi lạc, đem họ về với Tam Bảo, trước khi Phật và giáo đoàn đến đây mở đạo tràng tại tu viện Kì-viên. Tôn giả viên tịch trước Phật ba tháng.

2. Tôn giả Mục Kiền Liên,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Upali
Đứng đầu thánh chúng về thần thông (thần thông đệ nhất). Ngài cũng là con của một gia đình Bà-la-môn, trong ngôi làng sát cạnh làng của tôn giả Xá Lợi Phất. Ngài và Xá Lợi Phất, như trên đã nói, là hai người bạn chí thân, cùng thông minh tài trí, lớn lên cùng học một thầy, rồi cùng theo Phật xuất gia một lần. Ngoài sở trường về thần thông, ngài còn nổi tiếng là bậc chí hiếu, vì đã cứu được Mẹ ngài thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỉ. Công tác hoằng hóa đặc sắc của tôn giả là việc hóa độ cho thiếu phụ Liên Hoa Sắc, từ một nàng kĩ nữ lừng danh trở thành một vị tì kheo ni gương mẫu, chứng quả A-la-hán và có thần thông số một trong hàng ni chúng. Cuối đời, tôn giả đã bị ngoại đạo hành hung đến tử thương; việc xảy ra khoảng vài tháng trước khi tôn giả Xá Lợi Phất viên tịch.

3. Tôn giả Đại Ca Diếp,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Dcd_01

Đứng đầu thánh chúng về tu khổ hạnh (đầu đà đệ nhất). Ngài xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn, là người con độc nhất trong một gia đình cự phú ở ngoại ô kinh thành Vương-xá của vương quốc Ma-kiệt-đà. –Tương truyền rằng, tài sản của gia đình này còn nhiều hơn cả tài sản của quốc vương đương thời là Tần-Bà-Sa-La.– Ngài được sinh ra dưới gốc cây, và có gần đủ 32 tướng tốt của đức Phật. Đến tuổi trưởng thành, ngài vâng lệnh song thân lập gia đình, nhưng cả hai vợ chồng đều cùng có ý nguyện xuất gia tìm thầy học đạo, nên trong suốt 12 năm sống bên nhau, hai người vẫn quyết giữ phạm hạnh, dứt tuyệt ái ân. Sau 12 năm, lúc đó song thân đều đã qua đời, ngài mới được dịp thực hiện ý nguyện, bèn rời nhà ra đi, ước hẹn với vợ rằng, khi nào tìm được minh sư thì sẽ trở về dẫn bà cùng đi tu. Tương truyền, ngày ngài rời nhà ra đi tìm thầy học đạo cũng chính là ngày đức Thế Tôn thành đạo. Vậy mà ngài đã phải đi chu du khắp nơi, mãi đến khi tu viện Trúc-lâm (ở ngoại ô kinh thành Vương-xá) xây cất xong (năm thứ hai sau ngày Phật thành đạo), Phật và giáo đoàn dời về hành đạo tại đó, ngài mới có duyên được gặp Phật và xuất gia theo Phật tu học. Rồi năm năm sau nữa, khi chúng Tì kheo ni đã được Phật cho phép thành lập, ngài mới độ được cho vợ cùng xuất gia theo Phật. Trước khi xuất gia, ngài thừa kế một gia sản giàu sang địch quốc là thế, vậy mà sau khi xuất gia, ngài lại chỉ chuyên tu hạnh đầu đà (khổ hạnh). Ngài sống khắc khổ đến nỗi đức Phật cũng phải ái ngại, nhất là khi tuổi đã về già, sức khỏe đã mòn mỏi. Cho nên đã có vài lần Phật phải khuyên bảo, nhưng ngài vẫn cương quyết giữ chí nguyện. Ngài đã được đức Thế Tôn truyền cho tâm pháp, và sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, ngài đã kế thừa sự nghiệp, gánh vác trọng trách lãnh đạo giáo đoàn. Với sự hộ pháp của vua A Xà Thế (nối ngôi vua cha là Tần Bà Sa La), ngài đã đích thân tổ chức và chủ trì cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên tại ngoại ô thành Vương-xá, ba tháng sau ngày Phật nhập niết bàn. Ngài thọ trên một trăm tuổi. Trước khi viên tịch, ngài đã truyền tâm pháp cùng trọng trách lãnh đạo giáo hội lại cho tôn giả A Nan.

4. Tôn giả Tu Bồ Đề,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Xlp_01

Đứng đầu thánh chúng về thông suốt tính không của thực tại vạn hữu (giải không đệ nhất). Ngài quê ở thành Vương-xá, trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ; vốn là cháu gọi trưởng giả Cấp Cô Độc (cư trú tại kinh thành Xá-vệ của vương quốc Kiều-tát-la, đã từng xây tu viện Kì-viên để cúng dường Phật và giáo đoàn dùng làm cơ sở tu học và hành đạo đầu tiên ở vương quốc này) bằng bác ruột. Trong hàng thánh chúng, chỉ có tôn giả là có nhận thức sâu sắc về tính KHÔNG của vạn pháp, vì ngài đã hoàn toàn thấu triệt về đạo lí Không cũng như đã chứng nghiệm được tuệ giác Không. Để chứng minh cho điều đó, đức Phật đã từng bảo tôn giả thay Ngài giảng thuyết về tính Không để cho đại chúng được bổ túc thêm kiến thức. Không có tài liệu nào ghi nhận về thời khắc viên tịch của tôn giả.

5. Tôn giả Ca Chiên Diên,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+A-nan

Đứng đầu thánh chúng về tài hùng biện (nghị luận đệ nhất). Ngài xuất thân ở giai cấp Bà-la-môn, trong một gia đình hào phú, danh giá bậc nhất tại vương quốc A-bàn-đề (miền Nam Ấn-độ). Từ nhỏ, ngài đã được song thân cho về ở với đạo sĩ A Tư Đà, cậu ruột của ngài, để tu học. A Từ Đà là một vị đạo sĩ Bà-la-môn đắc đạo, tiếng tăm lừng lẫy khắp xứ Ấn-độ từ trước khi Phật xuất thế. Thấy cháu mình bẩm tính cực kì thông minh, đức hạnh, lại có chí lớn, ông rất cưng quí, và đã đem hết gia sản tinh thần của mình truyền cho. Bởi vậy, vừa trưởng thành là ngài đã trở thành một đạo sĩ Bà-la-môn xuất chúng. A Tư Đà, dù vốn là một đạo sĩ Bà-la-môn lỗi lạc, vẫn thấy rõ vị thái tử Tất Đạt Đa mới ra đời tại kinh thành Ca-tì-la-vệ (vương quốc Thích-ca) kia mới chính là bậc đại giác ở thế gian. Vì biết rõ mình đã quá già, không thể sống cho đến ngày thái tử thành đạo, nên ông đã dẫn cháu sang vương quốc Ca-thị, đến vùng phụ cận vườn Nai (Lộc-uyển) gần kinh thành Ba-la-nại, và cư trú tại đây. Từ đó, hằng ngày ông đều dặn dò Ca Chiên Diên, “khi nào bậc đại giác thành đạo, Người sẽ hóa độ tại khu vực này, lúc đó cháu phải xin theo Người tu học.” Đạo sĩ đã từ trần trước khi Phật thành đạo, và Ca Chiên Diên đã nhớ lời cậu dạy, khi Phật đến hóa độ ở vùng này, liền xin xuất gia theo Phật tu học. Vốn thông minh bác học, chẳng bao lâu ngài chứng quả A-la-hán, và trở thành một vị đệ tử thượng thủ của đức Phật. Ngài nổi danh là nhà hùng biện đại tài, và chính nhờ tài hùng biện này, ngài đã thuyết phục, dìu dắt không biết bao nhiêu ngoại đạo trở về nương tựa ngôi Tam Bảo. Không ai biết được ngài viên tịch vào lúc nào.

6. Tôn giả Phú Lâu Na,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Ph$C3$BA-l$C3$A2u-na

Đứng đầu thánh chúng về giảng pháp (thuyết pháp đệ nhất). Ngài sinh trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ ở vương quốc Kiều-tát-la. Tôn giả được nổi tiếng nhân lần đi bố giáo ở tiểu quốc Du-na, một xứ biên địa mà ai nghe cũng sợ sệt, vì đó là một nơi không có văn hóa, dân chúng man rợ, bạo ác. Vậy mà tôn giả đã tự nguyện đến đó giáo hóa, và đã thành công rực rỡ, lập được đạo tràng, dạy dỗ cho dân chúng sống có văn hóa, tính tình thuần thiện, thờ phụng Tam Bảo. Không biết tôn giả viên tịch vào lúc nào, chỉ biết rằng, sau khi Phật nhập diệt, tôn giả vẫn còn tiếp tục sứ mệnh độ sinh.

7. Tôn giả A Na Luật (hay A Nậu Lâu Đà),
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! Anl

Đứng đầu thánh chúng về mắt thấy vô ngại (thiên nhãn đệ nhất). Ngài là con trai thứ của thân vương Cam Lộ Phạn ở kinh thành Ca-tì-la-vệ (vương quốc Thích-ca), gọi quốc vương Tịnh Phạn bằng bác ruột. Như vậy, đức Phật với ngài là anh em chú bác ruột. Anh ruột ngài là đại tướng Ma Ha Nam, người đã được đức Phật và hội đồng hoàng tộc tín nhiệm cung cử lên nối ngôi sau khi vua Tịnh Phạn thăng hà (vì lúc này thái tử Nan Đà cũng như hoàng tôn La Hầu La đều đã xuất gia theo Phật). Năm thứ ba sau ngày thành đạo, đức Thế Tôn đã từ tu viện Trúc-lâm (ở thành Vương-xá) trở về cố hương là thành Ca-tì-la-vệ để thăm phụ hoàng cùng hoàng tộc. Khi Phật rời Ca-tì-la-vệ để đi địa phương khác giáo hóa thì có bảy vị vương tử con của các thân vương thuộc dòng họ Thích-Ca (như Bạch Phạn, Cam Lộ Phạn, Hộc Phạn – đều là em ruột của vua Tịnh Phạn) đã xin theo Phật xuất gia, trong đó có vương tử A Na Luật. Ngài tu học rất tinh tấn, nhưng cứ mắc phải một lỗi nhỏ, là thường ngủ gục trong khi nghe Phật giảng pháp! Dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn không bỏ tật ấy được; đến nỗi ngài đã bị Phật quở trách đôi ba phen. Cuối cùng, chẳng có cách nào hơn, ngài phải lập nguyện “không ngủ”. Ngài đã ngồi suốt ngày suốt đêm, hai mắt mở thao láo nhìn vào quãng không, không chớp mắt. Cứ thế, ngày này qua ngày khác, ngài cố gắng ngồi chịu đựng, cho đến một hôm thì cặp mắt sưng vù. Phật rất lo ngại, lại phải khuyên dỗ, nhưng ngài cứ nhất mực giữ vững chí nguyện; kết quả đưa đến là cặp mắt mù luôn! Phật thương xót lắm, cứ ở một bên để săn sóc cho ngài. Phật vừa săn sóc, vừa dạy ngài phương pháp tu định để cho mắt “sáng” ra. Ngài triệt để tu tập theo phương pháp Phật dạy, và chẳng bao lâu sau đó, ngài chứng thiên nhãn thông, thấy suốt trong ngoài, khắp cùng ba cõi, không ai sánh bằng, cho nên được đại chúng xưng tán là bậc thiên nhãn số một, trở thành một trong những vị đệ tử lớn của Phật. Trong giờ phút Phật nhập niết bàn tại rừng Câu-thi-na, ngài vẫn kề cận bên Phật, nhưng về sau thì không ai thấy vết tích gì do ngài để lại.

8. Tôn giả Ưu Ba Li,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+M$E1$BB$A5c-ki$E1$BB$81n-li$C3$AAn

Đứng đầu thánh chúng về tinh tường và nghiêm trì giới luật (trì giới đệ nhất). Ngài quê ở thành Ca-tì-la-vệ, xuất thân từ giai cấp nô lệ, làm nghề thợ cạo, có hiếu với mẹ vô cùng. Dù ở giai cấp nô lệ, bị cấm học hành, nhưng hai mẹ con đều có tâm trí linh mẫn, thông minh khác thường, riêng ngài thì tính tình cẩn trọng, nghề nghiệp khéo léo, vì vậy mà ngài đã được tuyển vào hoàng cung để chuyên trách việc cắt tóc và hầu hạ các vị vương tử. Khi đức Phật về hoàng cung lần đầu tiên (năm thứ ba sau ngày thành đạo) để thăm phụ hoàng và hoàng tộc, bảy vị vương tử dòng Thích-ca đã xin theo Phật xuất gia tu hành, ngài cũng xin được theo các vị vương tử xuất gia, và đã được Phật thu nhận. Đó là người ở giai cấp nô lệ đầu tiên được gia nhập giáo đoàn của Phật, – và cũng là người nô lệ đầu tiên được tham dự vào sinh hoạt tôn giáo trong lịch sử văn minh Ấn-độ. Do tính tình vốn vô cùng cẩn trọng, ngài đã hành trì giới luật thật nghiêm túc, trở thành vị tì kheo mẫu mực nhất tăng đoàn về phương diện giới luật. Trong đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên ở ngoại ô thành Vương-xá do tôn giả Đại Ca Diếp chủ trì, ngài đã được đại chúng cung cử đọc tụng các giới luật đức Phật đã chế, làm thành bộ Bát Thập Tụng Luật, là bộ luật căn bản đầu tiên của Phật giáo. Khác với Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nam truyền cho rằng, vị sơ tổ kế thừa đức Phật lãnh đạo giáo đoàn là tôn giả Ưu Ba Li chứ không phải là tôn giả Đại Ca Diếp.

9. Tôn giả A Nan (hay A Nan Đà),
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+La-h$E1$BA$A7u-la

Đứng đầu thánh chúng về nghe nhiều nhớ kĩ (đa văn đệ nhất). Ngài là em ruột của đại đức Đề Bà Đạt Đa (con của thân vương Bạch Phạn), và là em chú bác ruột của đức Phật. (Các vị vương tử anh em chú bác ruột trong dòng họ Thích-ca còn được biết tên cho đến ngày nay, theo thứ tự trên dưới, gồm có: Tất Đạt Đa, Nan Đà – con quốc vương Tịnh Phạn; Đề-Bà Đạt Đa, A Nan Đà – con thân vương Bạch Phạn; Ma Ha Nam, A Na Luật – con thân vương Cam Lộ Phạn; Bạt Đề, Bà Sa, Kiếp Tân Na – con thân vương Hộc Phạn; và Nan-Đề – con của (?). Trừ Ma Ha Nam ở lại nối ngôi vua Tịnh Phạn, tất cả các vị khác đều xuất gia tu hành; thái tử Tất Đạt Đa, trước khi xuất gia tìm đạo và thành Phật thì đã lập gia đình và có con là vương tôn La Hầu La; khi đức Phật trở về cố hương Ca-tì-la-vệ thăm hoàng gia lần đầu thì thái tử Nan Đà theo Phật xuất gia trước nhất, kế tiếp là vương tôn La Hầu La, đến khi Phật rời Ca-tì-la-vệ để đi giáo hóa phương khác thì bảy vị vương tử còn lại cùng rủ nhau theo đến chỗ Phật xin xuất gia.) Theo truyền thuyết từ trước đến nay thì tôn giả A Nan đã được sinh ra đúng vào ngày đức Phật thành đạo. Nhưng thiết nghĩ, điều này không hợp lí lắm, vì ngài theo Phật xuất gia vào năm thứ ba sau ngày Phật thành đạo, nếu ngài sinh vào ngày Phật thành đạo thì lúc xuất gia ngài mới có 3 tuổi! Không thể chấp nhận được. Năm đó vương tôn La Hầu La được 10 tuổi. Dù tôn giả La Hầu La xuất gia trước, nhưng cũng chỉ trước vài ba tháng thôi. Ngài xuất gia cùng năm với La Hầu La, nếu ngài không lớn hơn thì cũng phải bằng tuổi với La Hầu La, nghĩa là ngài phải ra đời trước ngày Phật thành đạo. Theo Đường Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh thì khi đi xuất gia, ngài vừa 18 tuổi – lớn hơn vương tôn La Hầu La 8 tuổi, nhưng nhỏ tuổi nhất trong số bảy vị vương tử cùng đi xuất gia một lần. Bởi vậy, khi xuất gia ngài đã không được thọ giới tì kheo ngay, mà phải chờ đến hai năm sau, khi tròn đủ 20 tuổi. Trong tăng đoàn, ngài là người đẹp trai và thông minh nhất, học một biết mười, nghe đâu nhớ đó, lại nhớ lâu, nhớ kĩ. Năm Phật được 55 tuổi đời thì ngài được đại chúng đề cử làm thị giả thường xuyên cho Phật. Phật đi đâu, nói pháp gì, ngài đều có mặt, bởi vậy, ngài cũng là người đã “nghe được nhiều nhất” trong tăng đoàn. Với nhiệm vụ thị giả, ngài đã hầu hạ, săn sóc đức Thế Tôn tận tâm tận lực, từ việc lớn đến việc nhỏ đều chu toàn trọn vẹn, không sơ suất, không lỗi lầm. Đối với mọi người thì ngài hết sức khiêm cung, lịch sự, hòa nhã, thân ái; cho nên, trong thì đức Thế Tôn không có điều gì phải quở trách ngài, và ngoài thì đại chúng cũng không có gì phải phiền hà ngài. Điều làm cho mọi người (từ thời đại ngài cho đến ngày hôm nay) yêu mến và nhớ ngài nhất là lần ngài bị nữ nạn “Ma Đăng Già”. Ni chúng tôn thờ ngài như vị cao tổ, vì nhờ ngài mà đức Thế Tôn đã cho phép thành lập giáo hội tì kheo ni. Tuy thông minh, đức độ và tận tụy như vậy, nhưng ngài lại là người chứng ngộ chậm nhất trong tăng đoàn! Một vị có căn tính tối tăm nhất tăng đoàn như đại đức Chu Lị Bàn Đà Già, học một câu kệ ba tháng không thuộc, mà vẫn chứng quả A-la-hán trước ngài. Còn ngài thì mãi đến ba tháng sau ngày Phật nhập diệt, ngay buổi tối trước ngày khai mạc đại hội kết tập kinh điển lần đầu, do sự “đánh thức” của tôn giả Đại Ca Diếp, ngài mới chứng thánh quả A-la-hán! Với sự kiện này, ngài đã được chấp thuận cho tham dự đại hội vào ngày hôm sau, và được toàn thể thánh chúng cung thỉnh lên pháp tòa đọc tụng lại toàn bộ những lời dạy của đức Phật trong suốt 45 năm qua, làm thành tạng Kinh trong ba tạng kinh điển của Phật giáo. Khi tuổi thọ xấp xỉ 80, ngài được tôn giả Đại Ca Diếp (trên 100 tuổi) truyền tâm pháp và ủy thác trọng trách lãnh đạo giáo hội; và đến năm 120 tuổi thì ngài truyền tâm pháp và giao phó trách nhiệm lãnh đạo giáo hội cho đệ tử là tôn giả Thương Na Hòa Tu, rồi nhập niết bàn.

10. Tôn giả La Hầu La,
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA! T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Tu-b$E1$BB$93-$C4$91$E1$BB$81

Đứng đầu thánh chúng về oai nghi tế hạnh (mật hạnh đệ nhất). Ngài là con của thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La, tức là cháu nội của vua Tịnh Phạn. Vì thái tử Tất Đạt Đa đã đi tu, và sau đó, người em cùng cha khác mẹ của thái tử Tất Đạt Đa là thái tử Nan Đà cũng đi tu, cho nên người thừa kế của vua Tịnh Phạn nhất định phải là ngài; nhưng rồi ngài cũng đi tu nốt, bởi thế, sau khi vua Tịnh Phạn thăng hà, Phật và hội đồng hoàng tộc mới phải cung cử đại tướng Ma Ha Nam (anh ruột tôn giả A Na Luật) lên nối ngôi. Ngài theo Phật xuất gia lúc 10 tuổi, thờ tôn giả Xá Lợi Phất làm thầy y chỉ, và trở thành vị sa di đầu tiên của tăng đoàn. Suốt tuổi ấu thơ sống trong vương cung, ngài đã từng được mẹ và ông nội thương yêu cùng cực; lúc sống ở tăng đoàn, tuy là thân phận sa di, nhưng phần vì vẫn còn là một chú bé, phần vì là con của Phật nên ai cũng cưng; những yếu tố đó đã giúp cho cái tập khí “vương giả” cứ sống ngấm ngầm mãi trong tâm hồn trẻ thơ, đã khiến cho sự tu tập của chú sa di La Hầu La không được nghiêm túc, hay lấy sự đùa nghịch phá phách người lớn làm trò vui. Bởi vậy, đích thân đức Thế Tôn phải bao lần dạy dỗ nghiêm khắc, rồi dần dần, càng trưởng thành ngài càng nhận ra được lẽ thật, quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm của tuổi trẻ. Mặt khác, vị y chỉ sư của ngài là tôn giả Xá Lợi Phất cũng chăm nom tận tình, đi giáo hóa ở đâu cũng dẫn ngài theo, ở đâu cũng cho ngài ở cùng, cho nên ngài đã được thấm nhuần trí tuệ cũng như đức độ nhẫn nhục, khiêm cung của thầy; ngài lập quyết tâm tu tập tinh tấn, nghiêm trì giới luật, chỉnh đốn oai nghi, suốt ngày im lặng, giảm thiểu tiếp xúc, không nói chuyện vô ích với bất cứ ai... Sau một thời gian chuyên tu “mật hạnh” như thế, một hôm, nhân một lời dạy đơn giản của Phật: “La Hầu La! Thầy hãy quán chiếu để thấy rõ sắc là vô thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường; thân thể và tâm ý của mọi người đều là vô thường; đến cả vạn sự vạn vật đầy dẫy trong thế gian kia, tất cả cũng đều là vô thường. Đã thấy rõ lẽ vô thường rồi thì tâm ta sẽ không còn bị vướng mắc vào đâu nữa.”, ngài hoát nhiên đại ngộ! Vì chuyên tu mật hạnh nên nếp sống của ngài rất bình lặng, không có gì sôi nổi, không có tiếng tăm lừng lẫy như quí vị tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, Phú Lâu Na v.v... Ngài nhập diệt khoảng năm 51 tuổi, trước cả đức Phật và ni sư Da Du Đà La.


Nguồn:http://gdptbuulam.blogtiengviet.net/2010/08/14/thaosp_a_aoii_a_ar_tars_carsa_a_arcc_pha
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết