NHẤT TÂM NIỆM PHẬT - CẦU SANH TỊNH ĐỘ


Join the forum, it's quick and easy

NHẤT TÂM NIỆM PHẬT - CẦU SANH TỊNH ĐỘ
NHẤT TÂM NIỆM PHẬT - CẦU SANH TỊNH ĐỘ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Đăng Nhập

Quên mật khẩu

Latest topics
» PHÓNG SANH - 2013
by Quảng Chánh Fri 20 Dec 2013, 4:38 pm

» HÌNH ẢNH LỄ VÍA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ 17/11 QUÝ TỴ
by Quảng Chánh Fri 20 Dec 2013, 4:36 pm

» Thông Báo: LỄ VÍA PHẬT A DI ĐÀ 17/11 QUÝ TỴ
by Quảng Nghiêm Tue 10 Dec 2013, 12:02 pm

» Chuyến Hành Hương Đà Lạt Của Các Huynh Muội!
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:31 pm

» CHÙA QUÁN ÂM TỊNH THẤT - ĐỨC TRỌNG - LÂM ĐỒNG
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:17 pm

» VĨNH MINH TỰ VIỆN - ĐẠI NINH
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:13 pm

» CHÙA PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ - ĐẠI NINH
by Quảng Nghiêm Wed 04 Dec 2013, 4:07 pm

» CHÙA DƯỢC SƯ - ĐẠI NINH
by Quảng Nghiêm Tue 03 Dec 2013, 4:21 pm

» Hình Ảnh Phóng Sanh Thứ Năm 21/11/2013
by Quảng Nghiêm Thu 21 Nov 2013, 2:17 pm

ĐẠI LỄ PHÓNG SANH CHÙA TỪ ÂN 2013
CHUA TU AN.gif
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NIỆM PHẬT CHỈ NAM Images?q=tbn:ANd9GcRlMejTGgNz5wM3qlaZDrddg9nSkmwZOPNo7da1-ROruqVGf_Uunw
“Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc, trong thế giới đó có Đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp”.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NIỆM PHẬT CHỈ NAM Images?q=tbn:ANd9GcSC-TGWiq75j0XxMcwvEuWsupTz51ROY8H3KC2gVO8PrgEl7kis
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi; và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NIỆM PHẬT CHỈ NAM Images?q=tbn:ANd9GcT_Cwwvbt-KXrgxf2JVdbPARkRNNKUP4UnXvofNx14x0rBsPzis
Nầy Vi-Đề-Hy, bất cứ chúng sanh nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì cảm ứng những năng lực tổng trì không thể nghĩ bàn.
NAM MÔ ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
NIỆM PHẬT CHỈ NAM Phoca_thumb_l_07
Nếu tâm của chúng sanh, nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hay tương lai, nhất định sẽ thấy được Phật, cách Phật không xa, không cần dùng phương pháp nào khác, thì tự tâm được khai ngộ, như người ướp hương, thì thân có mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm.
NAM MÔ ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT
NIỆM PHẬT CHỈ NAM Images?q=tbn:ANd9GcQrZzV4LYT1XvW4d6tDrJGwWBz0xQx7kD-bmMv9euFy2pMsmu_4
Danh hiệu Phật chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A-Di-Đà tức là Pháp-giới Tạng-thân, có lực dụng thu nhiếp và hiện Pháp thân của ba đời mười phương chư Phật.
NAM MÔ ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
NIỆM PHẬT CHỈ NAM Images?q=tbn:ANd9GcQmVlwzrsEvtHL5UZf5-xLsQ7VvFMcCAySNw66pZ2sTMa7h1Qo6_A
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của ngài nối tiếp không gián đoạn, thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.

NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:45 am

NIỆM PHẬT CHỈ NAM

1. Trích yếu lời phán định hai cách tạp tu và chuyên tu Tịnh nghiệp của đại sư Thiện Ðạo đời Ðường

Hỏi: Vì sao chẳng dạy tu quán mà chỉ dạy thẳng chuyên xưng niệm danh hiệu?

Ðáp: Chúng sanh chướng nặng, cảnh vi tế mà tâm thì thô phù, thần thức lao chao nên khó thành tựu pháp quán. Vì thế, đức Ðại Thánh bi mẫn khuyên ngay nên chuyên xưng danh hiệu, chính là vì danh hiệu dễ xưng, hễ niệm liên tục liền vãng sanh.

Nếu có thể niệm niệm liên tục, lấy lúc hết mạng làm hạn thì mười người tu mười người được vãng sanh, trăm người tu trăm người được sanh. Vì sao vậy?

Do vì không có tạp duyên bên ngoài nên được chánh niệm, vì tương ứng với bổn nguyện của Phật, vì chẳng trái giáo pháp, vì thuận theo lời Phật.

Nếu bỏ chuyên niệm để tu tạp nghiệp thì trong trăm kẻ hiếm có một hai [người được vãng sanh], trong cả ngàn người hiếm được ba bốn.

Vì sao vậy? Vì tạp duyên loạn động, đánh mất chánh niệm; vì chẳng tương ứng với bổn nguyện của Phật; vì trái nghịch giáo pháp, vì chẳng thuận lời Phật; vì hệ niệm chẳng tương tục; vì tâm chẳng liên tục nghĩ báo ân Phật; vì tuy tu hành mà thường tương ứng danh lợi; vì ưa gần tạp duyên gây chướng ngại chánh hạnh vãng sanh của mình lẫn người.

Xin hết thảy mọi người khéo tự suy nghĩ. Ði, đứng, nằm, ngồi đều phải chú tâm khắc kỷ, ngày đêm đừng quên. Trong niệm trước vừa mạng chung thì trong niệm sau liền sanh, vĩnh viễn hưởng pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng phải là vui sướng lắm ư?

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói:

“Hòa Thượng Thiện Ðạo là hóa thân của Phật A Di Ðà, ngài dạy về chuyên tu nghĩa là: thân nghiệp chuyên lễ (phàm nhiễu Phật và trong hết thảy mọi nơi, thân chẳng phóng dật đều là thân nghiệp chuyên lễ cả); khẩu nghiệp chuyên xưng (hễ khi nào tụng kinh trì chú mà có thể chí tâm hồi hướng thì đều có thể gọi là chuyên xưng cả); ý nghiệp chuyên niệm thì vãng sanh Tây Phương, trong cả vạn trường hợp chẳng sót trường hợp nào!

Tạp tu nghĩa là kiêm tu nhiều pháp môn và hồi hướng cầu vãng sanh. Do tâm chẳng thuần nhất nên khó có lợi ích. Ðấy là lời thành thật phát xuất từ miệng vàng, là khuôn phép ngàn xưa chẳng thay đổi được!”

Xin các hành nhân một dạ chuyên tu, lấy trọn đời làm hạn để cầu quyết được vãng sanh.


2. Trích yếu sách Vạn Thiện Ðồng Quy của đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống

Theo đoạn kinh giảng về chín phẩm vãng sanh trong Quán kinh thì sở dĩ có sự thăng giáng, phẩm vị thượng, hạ là vì chẳng ngoài hai tâm sau đây:

a. Một là Ðịnh Tâm như tu Ðịnh, tập Quán.

b. Hai là Chuyên Tâm: chỉ niệm danh hiệu, dùng các điều lành hỗ trợ, vun bồi; hồi hướng, phát nguyện nhưng phải trọn đời quy mạng, suốt đời chuyên tu.

Trong lúc nằm, ngồi, thường hướng về phương Tây. Trong lúc đi kinh hành, lễ kính và khi niệm Phật, phát nguyện phải khẩn thiết, siêng gắng, dốc trọn lòng thành, không có niệm gì khác, giống như lúc sắp bị xử chém, hoặc đang trong vòng tù tội, hoặc đang bị oán tặc truy đuổi, hoặc đang bị nước, lửa bức bách, nhất tâm cầu được cứu độ, nguyện thoát nỗi khổ, mau chứng vô sanh, rộng độ hàm thức, thiệu long Tam Bảo, thề báo tứ ân. Chí thành như thế ắt sẽ chẳng luống công!

Nếu như lời nói chẳng tương xứng việc làm, tín lực hời hợt, chẳng có tâm luôn giữ cho niệm niệm tiếp nối, ý nhiều phen gián đoạn; lại toan cậy vào sự tu tập lười biếng thế ấy mà mong lúc lâm chung được vãng sanh thì chỉ e rằng sẽ bị nghiệp chướng ngăn trở, khó gặp được thiện hữu, bị gió, lửa bức bách, chẳng giữ nổi chánh niệm!

Vì sao thế? Lúc hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả. Nhân có chắc thật thì quả mới chẳng hư dối. Nếu muốn được lâm chung mười niệm thành tựu thì phải dự bị sẵn phương tiện, tom góp công đức để hồi hướng về lúc đó; niệm niệm chẳng thiếu sót thì lúc ấy mới không luống uổng vậy!

Hoặc có kẻ hỏi: Công đức của việc đi kinh hành niệm Phật và ngồi niệm Phật như thế nào?

Ðáp: Ví như căng buồm đi ngược nước dù là cũng có thể đến nơi được, nhưng so với việc thuận nước căng buồm thì biết ngay khó dễ. Ngồi niệm Phật một tiếng đã tiêu trừ được tội lỗi trong cả tám mươi ức kiếp thì công đức đi kinh hành niệm Phật còn biết đến đâu? Vì thế có bài kệ rằng:

Kinh hành năm trăm vòng
Niệm Phật một ngàn tiếng
Thường tu hành như thế
Tự thành Phật Tây phương

Nếu lễ bái thì khuất phục được vô minh, thâm nhập bến Giác, mạng chung vãng sanh, mau chứng Niết Bàn.

Thiền Tịnh Tứ Liệu Giản
Có Thiền, không Tịnh Ðộ
Mười người, chín chần chừ
Nếu ấm cảnh hiện tiền.
Chớp mắt đi theo nó.
Không Thiền, có Tịnh Ðộ
Vạn người tu, vạn đỗ
Chỉ được thấy Di Ðà
Lo chi chẳng khai ngộ.
Có Thiền, có Tịnh Ðộ
Khác nào hổ thêm sừng
Ðời này làm thầy người
Ðời sau thành Phật, Tổ.
Không Thiền, không Tịnh Ðộ
Giường sắt và cột đồng
Muôn kiếp với ngàn đời
Trọn không ai nương dựa

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói:

“Có Thiền là tận lực tham cứu, niệm bặt tình mất, thấy tột cùng vẻ mặt sẵn có trước khi được cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.

Có Tịnh Ðộ là chơn thật phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương.

Nếu như tham Thiền chưa ngộ hoặc ngộ chẳng triệt để thì đều chẳng được gọi là ‘có Thiền’.

Nếu niệm Phật mà thiên chấp duy tâm, chẳng có tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chơn thành, thiết tha, chỉ hờ hững, lững lờ, hành qua loa cho có; hoặc hành tuy tinh tấn nhưng tâm mê đắm trần cảnh, hoặc cầu đời sau sẽ sanh trong nhà phú quý, hưởng vui ngũ dục; hoặc cầu sanh lên trời để hưởng vui phước trời; hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng nghe một ngộ cả ngàn, đắc đại Tổng Trì, hoằng dương pháp đạo, phổ lợi chúng sanh thì đều chẳng đáng gọi là ‘có Tịnh Ðộ’ vậy!

Còn bảo kẻ ‘không Thiền, không Tịnh’ là nói đến kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp thì thật là lầm lẫn lớn!

Pháp môn vô lượng nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là thích ứng với các căn cơ nhất. Kẻ nào chưa triệt ngộ mà lại chẳng cầu vãng sanh, cứ loay hoay tu đủ các pháp môn khác thì chẳng những đã không thể giữ cho Ðịnh và Huệ được cân bằng hòng đoạn hoặc, chứng chơn; mà lại còn chẳng nương theo Phật lực để đới nghiệp vãng sanh! Ðem công đức tu trì trọn đời mong cảm lấy phước báo trời - người, cậy phước làm ác, sẽ đọa địa ngục; muốn có lại thân người thì thật là khó nhất trong những sự khó vậy!

Câu “trọn không ai nương dựa” vẫn chỉ là lời nói còn nhẹ lắm do bị hạn cuộc trong âm vận bài kệ đó thôi! Ðại sư (Tổ Vĩnh Minh) sợ đời chẳng hiểu nên đặc biệt viết bài liệu giản này để chỉ dạy đời tương lai’.

Xin các hành nhân chuyên tâm trì danh, cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng uổng phí.

3. Trích yếu sách Vãng Sanh Tịnh Ðộ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức đại sư đời Tống

Phàm là kẻ bận việc công hay làm chuyện tư, bận rộn công việc, tuy làm việc mà trong tâm vẫn thường chẳng quên Phật, luôn nhớ Tịnh Ðộ. Giống như người đời có chuyện quan trọng phải bận tâm, tuy tính toán, nói năng, nằm, ngồi, làm đủ các sự, nhưng chẳng ngại chi việc thầm nhớ, chuyện bận tâm trên vẫn còn y nguyên! Phải nên có tâm niệm Phật như thế!

Nếu lỡ quên mất thì phải nhiều lần gom tâm lại, lâu ngày sẽ thành tánh, luôn nghĩ nhớ tùy ý.

Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa; chẳng nhọc phương tiện, tâm tự khai ngộ”.

Ràng buộc tâm như thế thì sẽ luôn ngăn ngừa các ác một cách tùy ý. Giả sử muốn làm ác thì do nhớ đến Phật nên ác chẳng thể thành. Dù cho có lúc ngả theo điều ác mà làm ác thì tâm cũng luôn rụt rè, giống như thân có mùi thơm sẽ tự nhiên xa lìa chỗ hôi thối.

Hơn nữa, nếu biết tâm vừa mới khẽ khởi ác niệm thì liền nhớ đến Phật. Do Phật lực nên ác niệm tự dứt như kẻ gặp nạn cầu đến cường viện sẽ được thoát khỏi.

Lại như lúc thấy người khác chịu khổ thì do tâm niệm Phật sẽ xót thương kẻ ấy, mong kẻ ấy thoát khổ.

Nếu phải xét xử án tù thì do niệm Phật nên sanh lòng thương xót, tuy vẫn tuân phép vua, nhưng nên thầm nguyện rằng: “Tôi tuân hành vương pháp chứ chẳng phải bổn tâm muốn thế. Nguyện khi tôi sanh về Tịnh Ðộ sẽ cứu vớt người!”

Khi trải qua hết thảy hoàn cảnh dù thiện hay ác thì do tâm nhớ Phật nên đều tâm niệm phát nguyện. Vì thế, đại nguyện vương của đức Phổ Hiền: “Làm hết thảy ác đều chẳng thành tựu; nếu làm thiện nghiệp thảy đều hòa hợp” phát xuất chính từ ý nghĩa này.

Trong tâm luôn niệm Phật liên tục như thế thì có thể thành tựu hết thảy công đức nhân duyên Tịnh Ðộ.

Nhận định:

Môn Hệ Duyên này có lợi ích rất lớn, giữ sao cho trong tâm luôn hệ niệm chẳng quên đức Phật; trong hết thảy hoàn cảnh thiện ác đều nguyện và khi làm các việc đều mật trì danh hiệu Phật chẳng sót thì có thể nói là chẳng hề lìa Ðạo trong khoảnh khắc nào.

4. Trích yếu sách Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự của đại sư Phổ Chiếu Trung Phong Minh Bổn đời Tống

Giáo nghĩa của Tịnh Ðộ là ngưỡng thừa bốn mươi tám nguyện lực đại từ đại bi sâu nặng của đức A Di Ðà Phật nhiếp thủ mười phương chúng sanh. Hễ ai có đủ tín tâm thì đều được vãng sanh.

a. Tín là tin có Tây Phương Tịnh Ðộ, tin có việc đức A Di Ðà Phật nhiếp thủ chúng sanh, tin bọn chúng sanh chúng ta có phần vãng sanh.

Tin được như thế thì gọi Chơn Tín. Tín mà không hạnh thì chẳng thành Tín.

Tuy nói là A Di Ðà Phật nhiếp thủ chúng sanh nhưng cần phải tin rằng đấy chỉ là tùy tâm tự hiện, cảm ứng đạo giao, xét đến rốt ráo chẳng phải là có tự bên ngoài.

b. Hạnh là như kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Kinh A Di Ðà dạy:

“Nghe nói đức A Di Ðà Phật liền chấp trì danh hiệu trong một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn”. Hành như thế gọi là Chánh Hạnh. Hạnh mà thiếu Nguyện thì Hạnh chẳng thành.

c. Nguyện phải tương ứng mỗi nguyện trong bốn mươi tám nguyện của đức A Di Ðà. Ðấy là Ðại Nguyện.

Ba thứ: Tín, Hạnh, Nguyện như ba chân của cái đỉnh, thiếu một thứ chẳng được. Nên biết rằng: một niệm hiện tiền vốn tự viên thường. Tín - Hạnh - Nguyện nguyên vốn là tánh đức vốn tự sẵn có như thế, nay chỉ là bổn tánh hiển hiện quang minh mà thôi.

Ngay trong lúc vọng tâm tạp loạn nếu có thể khởi lên một niệm như đối trước đấng Từ Tôn, nắm vững sáu chữ hồng danh, mỗi câu niệm ra thấu vào tai thì cái tạp loạn ấy sẽ tự nhiên tịch tĩnh theo câu niệm.

Từ một niệm ấy cho đến mười niệm, thậm chí niệm niệm chẳng dời đổi; đấy chính là điều kinh gọi là “tịnh niệm tiếp nối”.

Người niệm Phật tín tâm cần phải khẩn thiết, chánh nhân lẫm lẫm, đặt nặng nỗi buồn sanh tử luân chuyển, nhàm chán sâu xa nỗi đau trần lao vấn vít để khởi lên một tiếng niệm Phật. Ngay khi đó không còn nghĩ gì khác, thẳng đến khi nhất tâm bất loạn, Năng lẫn Sở cùng mất thì chẳng cần phải nhắc lại lời nói đề cập đến con đường về nhà nữa, chẳng cần phải mất công nhai nhải chuyện đi trên con đường tắt.

Pháp môn này đáng bảo là cách thức tu hành thần diệu, là đường chánh siêu việt phương tiện vậy.

Nhận định:

Câu: “Ngay trong lúc vọng tâm tạp loạn nếu có thể khởi lên một niệm niệm Phật; mỗi câu niệm thốt ra thấu vào tai thì cái tạp loạn ấy sẽ tự nhiên tịch tĩnh theo câu niệm” chính là yếu quyết để trừ vọng niệm, nguyện các hành nhân hãy thiết thực hành trì. Dùng Tín để nhập đạo, lấy Nguyện để dẫn đường, chẳng thể khuyết một thứ nào.

5. Trích yếu sách Liên Tông Bảo Giám của Hổ Khê Tôn Giả Ưu Ðàm Phổ Ðộ đại sư đời Nguyên

[Trong các pháp để] nhiếp tâm niệm Phật muốn được mau thành tam muội, đối trị hôn trầm, tán loạn thì pháp Sổ Tức (đếm hơi thở) là quan trọng nhất.

Hễ lúc nào muốn tịnh tọa thì trước hết phải tưởng thân mình ở trong Viên Quang [của Phật], lặng nhìn chót mũi, theo dõi hơi thở ra vào. Mỗi hơi thở thầm niệm một tiếng A Di Ðà Phật. Phương tiện điều hòa hơi thở chẳng nhanh, chẳng chậm; tâm và hơi thở nương theo nhau.

Ði, đứng, nằm, ngồi đều có thể thực hành theo cách nương theo hơi thở ra vào chẳng để gián đoạn. Luôn tự miên mật hành trì cho đến lúc thâm nhập Thiền Ðịnh, cả hơi thở lẫn câu niệm cùng mất thì thân tâm này giống như hư không. Lâu ngày thuần thục tâm nhãn khai thông, tam muội đột nhiên hiện tiền. Ðấy chính là “duy tâm Tịnh Ðộ”.

Luận Bảo Vương chép: “Tu trì Nhất Tướng Niệm Phật tam muội là ngay trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, luôn hệ niệm chẳng quên. Dù có ngủ nghỉ, khi thức dậy là liền hệ niệm tiếp”, chẳng để các nghiệp khác gây gián đoạn, chẳng để tham, sân, si cách ngăn.

Hễ phạm liền sám hối ngay chẳng để quá một niệm, chẳng nghĩ gì khác, chẳng để cách ngày, cách quãng thời gian. Niệm niệm thường chẳng rời Phật; niệm niệm thanh tịnh viên minh, chính là đắc Nhất Tướng tam muội.

Bồ Tát tại gia thờ Phật giữ giới, suốt ngày lo liệu gia duyên chưa thể nhất tâm tu hành thì sáng dậy nên đốt hương, lễ bái Tam Bảo, tùy ý niệm Phật. Mỗi lúc hoàng hôn cũng lễ niệm như thế; lấy đó làm thường khóa.

Nếu như ngày nào bỏ sót thì ngày hôm sau nên đối trước Phật bày tỏ sám hối. Pháp môn này cốt ở chỗ chẳng gây trở ngại đến công việc mình: chẳng trở ngại kẻ sĩ đọc sách luyện văn, chẳng trở ngại nhà nông cấy cày, chẳng ngại kẻ làm thợ làm lụng, chẳng trở ngại thương gia bán buôn.

Ngoài việc sáng lễ, chiều lạy, trong mười hai thời nên dành chút công phu niệm trăm câu, ngàn câu danh hiệu Phật, lấy chí thành làm công lao để cầu sanh Tịnh Ðộ.

Phàm là người tu Tịnh Ðộ thì rõ ràng là phải chống chọi sanh tử, chứ chẳng phải nói xuông rồi thôi. Hãy nghĩ tới vô thường nhanh chóng, thời gian chẳng đợi ai, phải hoàn thành sự nghiệp cho xong.

Nếu đã tin tưởng được rồi thì từ ngày nay trở đi phải phát đại dũng mãnh, tinh tấn, chẳng cần biết là hiểu hay chẳng hiểu, kiến tánh hay chưa kiến tánh, chỉ chấp trì một câu Nam Mô A Di Ðà Phật giống hệt như dựa vào một tòa núi Tu Di, dẫu lay lắc cũng chẳng động.

Chuyên tâm, nhất ý để hoặc là tham niệm, hoặc quán niệm, hoặc ức niệm, hoặc thập niệm, hoặc thầm niệm, chuyên niệm, hệ niệm, lễ niệm. Niệm ở đâu chú tâm vào đó, thường nhớ thường niệm. Sáng cũng niệm, tối cũng niệm. Ði cũng niệm, ngồi cũng niệm.

Tâm niệm chẳng để luống qua, niệm Phật chẳng lìa tâm. Ngày ngày giờ giờ chẳng muốn buông bỏ, miên miên mật mật như gà ấp trứng luôn giữ cho hơi ấm được liên tục. Ðấy chính là “tịnh niệm tiếp nối”.

Lại còn vận dụng trí để quán chiếu biết Tịnh Ðộ chính là tự tâm. Ðấy chính là công phu tấn tu của bậc thượng trí. Giữ được Ðịnh, làm chủ được hành động, đạt được chỗ nương dựa ổn thỏa, thích đáng như thế thì dù có gặp cảnh giới khổ, vui, thuận, nghịch xảy ra cũng chỉ niệm A Di Ðà Phật, không hề có một niệm sanh tâm biến đổi, tâm thối đọa, tâm tạp tưởng. Cho đến hết đời, trọn không có niệm nào khác thì sẽ quyết định sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Nếu có thể dụng công như thế thì vô minh, nghiệp chướng sanh tử trong bao kiếp sẽ tự nhiên tiêu sạch, trần lao tập lậu tự nhiên hết sạch, được gặp Phật Di Ðà, chẳng lìa bổn niệm; công thành, hạnh mãn. Nguyện lực hỗ trợ nhau, khi lâm chung quyết sẽ sanh trong Thượng Phẩm.

Nếu người niệm Phật còn chưa sạch trần cấu, khi ác niệm nổi lên thì nên tự kiểm điểm. Nếu như mình có tâm keo tham, tâm sân hận, tâm si ái, tâm ganh ghét, tâm khinh dối, tâm hợm mình, tâm kiêu căng, tâm dua vạy, tâm tà kiến, tâm khinh mạn, tâm năng sở, và khi gặp phải hết thảy hoàn cảnh thuận nghịch liền thuận theo nhiễm cấu phát sanh hết thảy các tâm bất thiện; nếu khi các tâm như vậy phát khởi thì nên mau lớn tiếng niệm Phật, gom ý niệm về chỗ đúng đắn, đừng để cho tâm ác tiếp nối. Niệm miết cho đến khi ác niệm hết sạch, vĩnh viễn không còn sanh lại nữa.

Thường phải nên thủ hộ tất cả tâm thâm tín, tâm chí thành, tâm phát nguyện hồi hướng, tâm từ bi, tâm khiêm hạ, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẫn nhục, tâm trì giới, tâm hỷ xả, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ Ðề và hết thảy thiện tâm.

Lại nên xa lìa những điều trái với phạm hạnh, thực hành những luật nghi dứt ác, đừng nuôi dưỡng gà, chó, lợn, dê; những việc như săn bắn, đánh cá đều chẳng nên làm. Nên học đòi theo Phật, nên lấy việc bỏ ác làm lành để răn xét mình!

Bậc tin chơn thật tu hành chỉ cốt nhớ được một câu A Di Ðà Phật này trong mỗi ý niệm, đừng để cho quên mất, niệm niệm thường hiện tiền, niệm niệm chẳng lìa tâm.

Vô sự cũng niệm như thế, hữu sự cũng niệm như thế. An vui cũng niệm như thế, bịnh khổ cũng niệm như thế. Sống cũng niệm như thế, chết cũng niệm như thế.

Một niệm phân minh bất muội như thế thì cần gì phải hỏi người khác đường lối tu hành để được vãng sanh nữa?

Nhận định:

Ðối với thường khóa sớm tối, người tại gia niệm Phật nhất định chẳng thể bỏ sót. Nếu như có lúc bỏ sót thì sao chẳng ngủ trễ, dậy sớm? Ðừng vin vào đó để gián đoạn thường khóa. Chỉ khi nào bận rộn suốt tối hôm trước thì sáng hôm sau mới đối trước Phật bày tỏ, sám hối, niệm bù.

Thường nhật nên dùng thời gian rảnh rang để niệm Phật, niệm càng nhiều càng hay, cũng chẳng hạn định trong trăm câu, ngàn câu. Lâu ngày thuần thục thì tam muội sẽ dễ hiện tiền.

6. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Hoặc Vấn của đại sư Duy Tắc Thiên Như đời Nguyên

Người sanh trong đời có được mấy chốc? [Ðời người như] lửa xẹt từ đá, như ánh chớp nháng lên, chớp mắt đã hết. Giành ngay lúc chưa bệnh, chưa già đây, dốc trọn tinh thần, vứt bỏ sự đời; cứ mỗi một ngày trôi qua là một ngày niệm danh hiệu Phật, được một thời công phu, tu một thời Tịnh nghiệp. Do đấy, lúc mạng lâm chung, dù là chết nhẹ nhàng hay chết đau khổ thì những cái ta vương vấn đã được giải quyết xong, tiền trình của ta đã ổn thỏa, thích đáng rồi!

Người bị ràng buộc trong lưới đời nếu đau đáu nghĩ đến vô thường, dụng tâm chơn thành, thiết tha thì chẳng luận là khổ, vui, thuận, nghịch, tịnh, ồn, rảnh, bận, mặc lòng công chuyện hoàn tất hay chưa, dù tiếp tân, đãi khách, vạn duyên rối bời, dẫu phải ứng phó mọi mặt mà việc đời và việc niệm Phật vẫn chẳng trở ngại gì nhau cả!

Nếu ai bận khá nhiều việc đời, sức dù có hơi kém thì cũng vẫn nên tìm lấy thời gian rảnh rang giữa lúc bận rộn, tìm lúc yên tịnh giữa chốn huyên náo để mỗi ngày niệm ba vạn câu, hoặc một vạn câu, hoặc ba ngàn câu, một ngàn câu. Lấy đó làm nhật khóa nhất định, chẳng bỏ suông ngày nào!

Lại ngay cả khi bận rộn hết sức không có lúc nào rảnh rang thì mỗi ngày vào lúc sáng sớm nên hành pháp Thập Niệm. Lâu ngày tích tụ thành công lao cũng chẳng luống uổng.

Ngoài lúc niệm Phật ra thì hoặc là niệm kinh, lễ Phật, hoặc sám hối phát nguyện, làm đủ các thứ kết duyên tạo phước, tùy sức bố thí, tu các việc lành để hỗ trợ thêm. Với bất cứ điều lành mảy may nào đều phải hồi hướng Tây Phương.

Dụng công như thế chẳng những sẽ quyết định vãng sanh mà còn khiến cho phẩm vị được thêm cao nữa!

Chuyên trì danh hiệu hoặc còn lễ bái, sám hối thêm thì rất hợp với thuyết Chuyên Tu Vô Gián của ngài Thiện Ðạo.

Chuyên Tu Vô Gián là thân phải chuyên lễ A Di Ðà Phật, chẳng lễ xen lẫn các vị khác; miệng chuyên niệm A Di Ðà Phật chẳng niệm các thánh hiệu khác, chẳng tụng các kinh khác; ý phải chuyên tưởng A Di Ðà Phật, chẳng tưởng vị nào khác. Nếu tham, sân, si xen tạp thì cứ hễ phạm liền sám, chẳng để cách ngày, cách đêm hay cách giờ; thường giữ cho thanh tịnh thì cũng gọi là Vô Gián.

Pháp Hệ Niệm là chẳng cần biết đến là đang đi, đứng, hay nằm, ngồi, chẳng cần phải niệm ra tiếng tốn hơi; chỉ cốt chí thành, thầm tưởng thầm niệm, niệm niệm liên tục, tâm không gián đoạn. Tôi dám hứa là nhục nhãn của hành nhân trong hiện đời sẽ thấy Phật, hoặc thấy quang minh, hoặc được Phật xoa đảnh v.v… chứ chẳng cần phải đến lúc lâm chung!

Ðây là một pháp môn đường tắt, giản dị nhất, thiết yếu nhất, cực kỳ linh nghiệm.

Nhận định:

Mẹ của Ðại Sư tuổi gần bảy mươi; ngài sợ niệm Phật ra tiếng tốn hơi nên ngầm sai em là ngài Hành Viễn khuyên mẹ tu pháp môn Hệ Niệm.

Nếu có thể niệm Phật ra tiếng thì sẽ dễ xưng danh hơn, dễ giữ được niệm niệm liên tục. Vì thế, sách Tịnh Ðộ Hoặc Vấn quy kết về việc chuyên trì danh hiệu.


Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:51 am

7. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Pháp Ngữ của đại sư U Khê Truyền Ðăng Vô Tận đời Minh

Dương Thứ Công nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà; niệm chẳng nhất, chẳng sanh Tịnh Ðộ”.

Nếu đối với Sa Bà mà có một Ái chẳng nhẹ thì lúc lâm chung sẽ bị cái Ái đó lôi kéo nên chẳng được vãng sanh; thế thì có nên lắm ái hay không?

Nếu đối với Cực Lạc có một niệm chẳng chuyên nhất thì lúc lâm chung sẽ bị cái niệm ấy xoay chuyển, chẳng được vãng sanh; vậy thì có nên có lắm niệm hay không?

Do vì Ái có nặng, nhẹ, dày, mỏng: chánh báo, y báo bày đầy trước mắt nên chẳng thể lãng quên nổi cha mẹ, vợ con, đồ đệ, bạn bè, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, y phục, thức ăn, nhà cửa, ruộng vườn, rừng, suối, đồng hoa, trân bảo, ngoạn vật…

Hễ còn một vật chẳng quên nổi thì là Ái; còn có một niệm chẳng thể bỏ đi thì là Ái. Hễ còn giữ một niệm Ái trong lòng thì niệm chẳng thể chuyên nhất; còn một niệm chẳng quy nhất thì chẳng được vãng sanh.

Nếu hỏi: Có cách nào làm nhẹ ái chăng?

Xin thưa: Làm nhẹ ái không gì hơn là nhất niệm.

Có cách nào để nhất niệm không?

Xin thưa: Ðể đạt nhất niệm, không có gì bằng làm nhẹ ái.

Bởi vì niệm bất nhất là do tâm tán loạn, duyên khác [xen vào] khiến tâm tán loạn như thế. Duyên khác làm tán tâm là do rong ruổi theo cảnh nên trở thành như thế. Sa Bà có một cảnh thì chúng sanh có một tâm. Chúng sanh có một tâm thì Sa Bà có một cảnh.

Duyên chất chứa chao động bên trong, hướng ra ngoài loạn động, tâm cảnh theo đuổi nhau, ái nhiều như trần sa. Vì thế muốn nhẹ ái thì không gì bằng phải ngăn lấp cảnh!

Các cảnh đều không, vạn duyên đều tịch thì nhất niệm tự thành. Nếu nhất niệm thành thì ái duyên đều tận!

Có cách nào ngăn lấp các cảnh không?

Xin thưa: Ngăn lấp các cảnh nào phải đâu là trừ sạch vạn hữu, cũng chẳng phải là nhắm tịt mắt chẳng nhìn, mà chính là hiểu rõ cảnh là hư giả; thể hội cái gốc để thấy cái ngọn là không.

Vạn pháp vốn tự chẳng có. “Có” là do tình thức phát khởi nên hễ tình thức còn thì vật còn, tình không vạn vật không. Vạn pháp không nhưng bổn tánh hiện; bổn tánh hiện nhưng tình niệm dứt; tự nhiên như thế chẳng cần phải miễn cưỡng!

Kinh Lăng Nghiêm dạy:

“Kiến và kiến duyên đều là tướng được tưởng giống như hoa đốm trên hư không vốn chẳng có gì. Kiến và duyên ấy vốn là diệu tịnh minh thể của Bồ Ðề thì làm sao lại có đúng hay sai trong đó được?”

Vì vậy, muốn ngăn lấp cảnh thì không gì bằng hiểu rõ vật là hư huyễn. Hiểu mọi vật là hư huyễn thì tình thức tự nhiên tuyệt. Hễ tình tuyệt thì ái chẳng sanh, duy tâm hiện nên ý niệm chuyên nhất sẽ thành. Bởi thế, kinh Viên Giác dạy:

“Biết huyễn liền lìa, chẳng dùng phương tiện. Lìa huyễn chính là giác, cũng chẳng theo thứ tự nào cả!”

Một bỏ, một giữ, chẳng thể thay đổi, công hiệu mau chóng phù hợp khít khao như dùi đánh xuống, trống liền vang tiếng; kẻ học đạo phải nên tận tâm thực hành cách tu tập này!

Ðạo lý Nhất Niệm gồm ba điều là Tín, Nguyện, Hạnh.

a. Chẳng nghi là Tín, nếu có nghi thì tâm chẳng chuyên nhất. Vì thế, cầu sanh Cực Lạc phải lấy Tín làm đầu.

Cần phải đọc khắp các kinh điển Ðại Thừa, rộng học các lời dạy của chư Tổ. Hễ sách nào chỉ dạy pháp Tịnh Ðộ thì đều phải tìm đọc hết cả để giải ngộ rằng Cực Lạc vốn là Tịnh Ðộ duy tâm của ta đó thôi, chứ chẳng phải cõi nào khác; hiểu rõ Di Ðà vốn là vị chơn Phật nơi bổn tánh của ta, chứ chẳng phải là đức Phật nào khác. Có hai điều quan trọng nhất:

- Giải ngộ Diệu Hữu trọn khắp cả, đầy đủ tất cả; lấy đó làm gốc cho việc ưa Tịnh.

- Giải ngộ Chơn Không rời lìa một cách viên mãn, giải thoát một cách viên mãn hầu lấy đó làm cơ sở để lìa Uế.

Tín giải đã đầy đủ thì hãy nên niệm Phật tu hành.

b. Về Hạnh, có hai điều: một là Chánh Hạnh, hai là Trợ Hạnh.

b.1 Hánh Hạnh lại gồm hai thứ: một là Xưng Danh, hai là Quán Tưởng.

Xưng Danh là như kinh Tiểu Bổn Di Ðà dạy bảy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn. Có Sự Nhất Tâm và Lý Nhất Tâm.

Miệng xưng danh hiệu Phật, chú tâm nơi duyên, tiếng niệm tiếp nối, tâm tâm chẳng loạn. Nếu như tâm duyên theo ngoại cảnh thì nhiếp tâm trở lại.

Cách này đòi hỏi phải sanh tâm quyết định, đoạn trừ ý niệm nghĩ đến những chuyện sẽ xảy ra sau này, vứt bỏ thế sự, buông bỏ tâm duyên theo cảnh khiến cho niệm tâm dần dần tăng trưởng từ chốc lát đến lâu ngày, từ nhiều đến ít, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày cốt sao thành tựu được nhất tâm bất loạn mới thôi. Ðó là Sự Nhất Tâm.

Nếu đạt được như vậy thì thành tựu Tịnh nhân sanh về Cực Lạc; lúc lâm chung tất nhiên giữ được chánh niệm, thân không bịnh khổ, chẳng bị sự ác trói buộc, biết trước giờ chết, thân tâm hoan hỷ, qua đời một cách tốt lành: ngồi tịch hay đứng mất, diện kiến đức Di Ðà phóng quang tiếp dẫn, chắc chắn sanh về Tịnh Ðộ!

Lý Nhất Tâm cũng chẳng khác gì, chỉ là ngay trong Sự Nhất Tâm: trong mỗi mỗi niệm hiểu thấu suốt tâm niệm Phật và đức Phật được niệm suốt ba đời đều bình đẳng, mười phương chứa đựng lẫn nhau, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải Tự, chẳng phải Tha, không đến, không đi, chẳng sanh, chẳng diệt.

Cái tâm nhất niệm hiện tiền chính là cảnh Tịnh Ðộ trong vị lai. Niệm mà không niệm, không niệm nhưng niệm, vô sanh mà sanh, sanh nhưng vô sanh. Ở ngay trong cái chẳng thể niệm ấy lại sốt sắng niệm, ngay trong cái vô sanh ấy lại sốt sắng cầu sanh. Ðấy là ngay trong Sự Nhất Tâm hiểu rõ Lý Nhất Tâm.

Nếu như trong bốn oai nghi chẳng hề gián đoạn việc tu Tịnh Ðộ thì vãng sanh Tịnh Ðộ là chuyện tất nhiên!

b.2 Trợ Hạnh cũng gồm hai thứ:

- Một là hạnh thế gian như hiếu dưỡng cha mẹ, làm điều nhân từ thế gian, từ tâm chẳng giết, trọn đủ các giới luật, làm hết thảy việc lợi ích. Nếu có thể hồi hướng những việc ấy về Tây Phương thì không việc gì lại chẳng phải là hạnh trợ đạo.

- Hai là hạnh xuất thế như Lục Ðộ, vạn hạnh, các thứ công đức, đọc tụng kinh Ðại Thừa, tu các sám pháp; cũng cần phải dùng tâm hồi hướng để trợ tu thì không gì chẳng phải là hạnh Tịnh Ðộ.

Lại còn một thứ trợ hạnh vi diệu nữa: Ðối với mỗi thứ cảnh duyên phải trải qua, lúc nào cũng dụng tâm.

Chẳng hạn như khi thấy quyến thuộc thì nên tưởng họ là pháp quyến ở Tây phương, dùng pháp môn Tịnh Ðộ để khai ngộ, chỉ bảo khiến cho họ mỏng nhẹ ái kiến để được nhất tâm nhằm làm cho họ vĩnh viễn trở thành vô sanh quyến thuộc trong tương lai.

Nếu lúc sanh ý tưởng ân ái thì hãy nghĩ quyến thuộc Tịnh Ðộ chẳng có tình ái; để được sanh về Tịnh Ðộ thì nên xa lìa tình ái đó.

Nếu như khi sanh tâm sân hận thì hãy nghĩ đến quyến thuộc Tịnh Ðộ chẳng hề có xúc não. Ðể được sanh về Tịnh Ðộ thì nên xa lìa sự sân hận đó.

Nếu lúc chịu khổ thì nên nghĩ đến cõi Tịnh Ðộ chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những điều vui.

Nếu khi hưởng các điều vui hãy nghĩ đến niềm vui trong Tịnh Ðộ không thể tính biết nổi.

Hễ gặp cảnh duyên đều dùng ý ấy để suy xét kỹ càng thì trong mọi nơi, mọi lúc, không có gì chẳng phải là hạnh Tịnh Ðộ!

c. Nguyện có thông, biệt, rộng, hẹp, trọn khắp hay hạn cuộc.

Thông là như những bài phát nguyện hồi hướng của các vị cổ đức đã soạn ra.

Biệt là ai nấy tùy theo ý mình [mà phát nguyện].
Rộng là tứ hoằng nguyện: thượng cầu hạ hóa.
Hẹp là nói đến khả năng, quyết chí vãng sanh.
Hạn cuộc là khóa tụng có giờ giấc nhất định, phát nguyện cùng đại chúng.
Trọn khắp là lúc nào cũng phát nguyện, chỗ nào cũng bày tỏ tâm nguyện.

Nguyện chỉ cốt phù hợp Tứ Hoằng Nguyện, đừng móng tâm vọng lập. Xét chung các thứ nguyện đã phát thì biệt nguyện thù thắng hơn thông nguyện vì sợ khi đọc thông nguyện chỉ thuận miệng đọc theo lời văn của người khác; còn biệt nguyện thì tự mình nêu bày tấm lòng.

Nếu như tuy đọc những bài phát nguyện chung nhưng quyết chí thì Thông lại trở thành Biệt. Còn nếu đọc lời văn phát nguyện của riêng mình mà tâm lan man thì Biệt lại trở thành Thông.

Nguyện rộng tốt hơn nguyện hẹp vì nguyện rộng thì phát đại tâm nên đạt quả thù thắng, phát nguyện hẹp thì bi nguyện nông cạn nên đạt quả kém hơn.

Phát nguyện trọn khắp lại tốt hơn phát nguyện hạn cuộc vì phát nguyện hạn cuộc hay bị gián đoạn, phát nguyện trọn khắp thì niệm niệm viên thành.

Có thể dùng ba pháp như vậy để cầu sanh Tịnh Ðộ, mau được thân cận Phật Di Ðà, hết thảy các pháp môn Tịnh Ðộ không có pháp nào ra ngoài được ba điều này.

Nhận định:

Ðạo lý mỏng nhẹ ái và nhất niệm vừa dạy hoàn toàn nằm trong ba pháp Tín, Hạnh, Nguyện, thật là tinh diệu, thỏa đáng. Nhưng Chánh Hạnh chỉ là chuyên trì danh, chứ chẳng cần phải quán tưởng.

Trong hết thảy thiện hạnh thế gian và xuất thế gian, hễ khi nào ta hồi hướng về Tây phương thì khi đó nó là Trợ Hạnh. Ðấy chính là vạn thiện đồng quy, phước huệ song tu vậy.
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:53 am

8. Trích yếu sách Tử Bách Lão Nhân Tập của đại sư Tử Bách Ðạt Quán đời Minh

Sư hỏi vị tăng Hải Châu: “Niệm Phật có thường gián đoạn chăng?”

Tăng đáp: “Hễ nhắm mắt ngủ liền quên mất”.

Sư nghiêm mặt, quở:

- Nếu nhắm mắt liền quên thì niệm Phật như vậy dù có niệm một vạn năm cũng vô ích! Từ nay trở đi, ông cần phải trong lúc ngủ cũng niệm Phật chẳng gián đoạn thì mới có phần thoát khổ nổi!

Nếu trong giấc ngủ chẳng niệm Phật được, quên mất đi thì khi mở mắt ra liền buồn khóc, nhỏm dậy ngay, đến ngay trước đức Phật dập đầu đến chảy cả máu, hoặc niệm ngàn tiếng, vạn tiếng, dốc cạn hết sức chính mình mới thôi. Làm như thế chừng hai ba chục lần thì tự nhiên trong khi ngủ mê mệt, niệm Phật cũng chẳng bị gián đoạn.

Người đời niệm Phật hoặc là hai, ba chục năm hoặc suốt đời niệm Phật mà đến lúc lâm chung lại thành vô dụng là do lúc ngủ nghỉ chẳng hề có ý niệm nhớ đến Phật.

Người sống như đang tỉnh, người chết như mộng; bởi vậy, người nào trong mộng vẫn niệm Phật thì lúc lâm chung tự nhiên chẳng loạn vậy!

Muốn khám nghiệm một cách chính xác xem mình niệm Phật có chơn thật hay không thì chỉ cần quan sát lúc mình hoan hỷ và phiền não thì biết rõ ràng ngay là tâm mình chơn thật hay giả dối.

Ðại để, người chơn tâm niệm Phật dù là lúc hoan hỷ hay phiền não thì tất nhiên vẫn niệm niệm chẳng gián đoạn vì phiền não chẳng lay động người đó nổi, hoan hỷ cũng chẳng lay động người đó được. Phiền não lẫn hoan hỷ đều đã chẳng lay động nổi người đó thì trong cảnh sanh tử sẽ tự nhiên chẳng hoảng sợ.

Nay người niệm Phật vừa mới gặp phải chút vui mừng, giận hờn đã vứt A Di Ðà Phật ra sau ót thì sao mà niệm Phật được linh nghiệm cơ chứ?

Nếu làm theo cách niệm Phật của tôi, thật sự có thể chẳng quên mất câu A Di Ðà Phật trong lúc yêu ghét, thế mà chẳng được lợi ích gì trong cuộc sống hằng ngày cũng như khi lâm chung chẳng được vãng sanh thì cái lưỡi của tôi ắt sẽ bị gãy nát vậy!

Nhận định:

Ðạo lý mỏng nhẹ ái và nhất niệm vừa dạy hoàn toàn nằm trong ba pháp Tín, Hạnh, Nguyện, thật là tinh diệu, thỏa đáng. Nhưng Chánh Hạnh chỉ là chuyên trì danh, chứ chẳng cần phải quán tưởng.

Trong hết thảy thiện hạnh thế gian và xuất thế gian, hễ khi nào ta hồi hướng về Tây phương thì khi đó nó là Trợ Hạnh. Ðấy chính là vạn thiện đồng quy, phước huệ song tu vậy.
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:55 am

9. Trích yếu sách Vân Thê Pháp Vựng của đại sư Liên Trì Chu Hoằng đời Minh

Tâm vốn vô niệm, hễ có niệm khởi lên là sai; nhưng chúng sanh từ vô thỉ đến nay quen thói vọng tưởng khó lòng thay đổi ngay được. Nay dạy họ niệm Phật chính là dùng độc trị độc, dùng quân dẹp quân.

Một pháp Niệm Phật lại có nhiều môn. Nay pháp Trì Danh đây là đường tắt nhất trong các đường tắt. Bởi vì đức Phật có vô lượng đức nên bốn chữ danh hiệu đã bao gồm trọn cả.

A Di Ðà chính là toàn thể nhất tâm, tâm bao gồm mọi đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chơn Như, Phật Tánh, Bồ Ðề, Niết Bàn. Trăm ngàn vạn danh hiệu đều được chứa đựng bất tận trong một danh hiệu này.

Chúng sanh học Phật cũng có vô lượng hành pháp, nhưng một pháp Trì Danh đây đã bao gồm trọn tất cả vì Trì Danh chính là trì một tâm đây. Tâm đã gồm trăm hạnh, Tứ Ðế, Lục Ðộ cho đến tám vạn bốn ngàn hằng hà sa vi trần hết thảy pháp môn, bao gồm hết cả không còn sót gì!

Có nhiều cách trì danh:

1) Một là Minh Trì nghĩa là xưng niệm ra tiếng.

2) Hai là Mặc Trì nghĩa là niệm thầm không ra tiếng.

3) Ba là Bán Minh Bán Mặc Trì nghĩa là chỉ khẽ động môi lưỡi để niệm. Cách này được những người tụng chú gọi là Kim Cang Trì.

Lại còn có cách niệm ghi số hoặc niệm chẳng ghi số, tùy ý dùng cách nào cũng được!

Cách trì niệm nào cũng chia ra làm Sự và Lý: Ức niệm chẳng gián đoạn thì gọi là Sự Trì; thể cứu đến cùng tột chẳng hề gián đoạn thì gọi là Lý Trì.

“Ức niệm” là nghe nói đến danh hiệu Phật thì luôn nhớ tới, luôn nghĩ tới, tâm duyên theo từng chữ rõ ràng; câu trước, câu sau liên tiếp chẳng gián đoạn. Ði, đứng, nằm, ngồi chỉ có mỗi một niệm này, không có niệm thứ hai; chẳng bị tạp loạn bởi các niệm tham, sân, si phiền não đúng như kinh Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý dạy:

“Nhất tâm nơi vắng vẻ, tịch mịch; nhất tâm giữa các phiền não; cho đến giữa những cảnh khen, chê, lợi, tổn, thiện, ác v.v… đều nhất tâm”.

Do mặt Sự đã đạt, nhưng chưa thấu triệt mặt Lý, chỉ đạt được Tín lực, chưa thấy Ðạo nên gọi là Sự Nhất Tâm.

“Thể cứu” là nghe danh hiệu Phật thì không những chỉ ức niệm mà còn trở lại quán sát ngay cái niệm ấy, suy lường, thẩm định tìm tòi đến tận cùng cội rễ. Thể cứu đến cùng tột thì đột nhiên sẽ khế hợp bổn tâm. Trong đây lại gồm có hai loại:

a. Một là “như - trí bất nhị”:

- Ngoài cái tâm năng niệm chẳng hề có đức Phật để mình niệm. Ðấy là ngoài Trí chẳng có Như.

- Ngoài đức Phật được niệm chẳng hề có cái tâm năng niệm để niệm Phật. Ðó là ngoài Như không có Trí nên chỉ có nhất tâm.

b. Hai là Tịch Chiếu Nan Tư:

Nếu bảo là Có thì bản thể của cái tâm năng niệm tự nó là Không, trọn chẳng thể có được đức Phật được niệm.

Nếu bảo là Không thì cái tâm năng niệm vằng vặc chẳng mờ mịt, đức Phật được niệm đành rành phân minh.

Nếu bảo là “chẳng có chẳng không” thì cả hữu niệm lẫn vô niệm đều mất.

Nếu bảo là “chẳng phải có chẳng phải không” thì hữu niệm lẫn vô niệm cùng tồn tại.

“Chẳng phải có” là thường tịch; chẳng phải không là thường chiếu. “Chẳng có chẳng không” và “chẳng phải có chẳng phải không” là chẳng tịch, chẳng chiếu nhưng vừa chiếu, vừa tịch.

Không cách gì để diễn tả, suy lường được, chẳng thể gọi tên được nên chỉ có Nhất Tâm.

Ðó chính là Năng lẫn Sở đều tiêu, kiến giải Hữu lẫn Vô cùng mất. Thể vốn sẵn thanh tịnh thì còn có pháp gì tạp loạn được nó.

Do vì thấy một cách đúng đắn như thế nên gọi là Lý Nhất Tâm.

Nhưng, Sự nương theo Lý mà khởi, Lý được tỏ bày bởi Sự; Sự và Lý hỗ trợ nhau, chẳng thể phế bỏ một bên nào.

Dẫu chấp Sự nhưng niệm đến mức liên tục thì vẫn chẳng mất phần dự vào các phẩm vị; còn nếu chấp Lý nhưng tâm chưa minh thật sự thì sẽ biến thành cái họa lạc vào Không kiến.

Niệm Phật to tiếng dễ mất sức, niệm thầm dễ bị hôn trầm. Chỉ cốt niệm miên miên mật mật, tiếng niệm đọng nơi răng, môi, tức là Kim Cang trì. Nhưng lại chẳng nên chấp chặt. Nếu biết mình đã mệt thì niệm thầm cũng chẳng trở ngại gì. Nếu biết mình hôn trầm thì chẳng ngại gì niệm lớn tiếng.

Hiện tại, người niệm Phật chỉ là liên tay khua mõ, miệng ong óng gào theo cho nên chẳng được lợi ích gì. Cần phải niệm sao cho từng câu thoát ra khỏi miệng vọng vào tai, từng tiếng đánh thức tự tâm ví như người đang ngủ mê mệt, có ai gọi lớn tên lên thì kẻ đó sẽ thức giấc.

Bởi vậy, điều quan trọng nhất trong việc niệm Phật là nhiếp tâm.

Tạp niệm là bịnh, niệm Phật là thuốc. Niệm Phật chính là để trị tạp niệm, nếu chẳng trị nổi tạp niệm là do niệm Phật chẳng tha thiết. Lúc tạp niệm khởi lên liền dốc sức ra công; mỗi chữ, mỗi câu tinh nhất chẳng xen tạp thì tạp niệm tự dứt.

Trong mỗi niệm luôn niệm Phật không có tạp niệm thì gọi là Nhất Tâm. Nhất tâm niệm Phật mà còn nhất tâm tu các pháp môn khác thì là Nhị Tâm!

Không tạp niệm mới chỉ là Sự Nhất Tâm nay mình còn làm chưa được huống hồ là Lý Nhất Tâm? Vì vậy, niệm Phật phải giữ chí đừng để nhị tâm, đừng vì lẽ tam muội khó thành bèn vội đổi sang tu các hạnh khác!

Kẻ mới học sanh sau vừa mới lấy câu niệm Phật đặt nơi tâm thì vọng tưởng, suy nghĩ nổi lên tơi bời, đè lấp cả cái giác bèn cho rằng công phu niệm Phật chẳng thể nhiếp tâm nổi, chẳng hề biết rằng mình làm sao đoạn ngay nổi nguyên do sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay cho được?

Ngay trong lúc vạn niệm vần vũ chính là lúc để ra sức công phu [mặc cho] định tâm, tán tâm nhoang nhoáng. Lâu ngày công phu thuần thục, tự nhiên vọng niệm chẳng khởi.

Các ông coi những vọng niệm mình nhận biết được đó là nặng cho nên bèn lơ là câu niệm Phật này. Còn như lúc chẳng niệm Phật, vọng niệm bồng bột tơi bời chẳng ngưng nghỉ trong một sát na nào hết thì các ông làm sao biết được?

Cổ nhân dạy thân cận minh sư, cầu thiện tri thức, nhưng thật ra thiện tri thức chẳng thể dùng miệng truyền tâm, trao pháp môn bí mật được, họ chỉ giúp người khác gỡ niêm cởi trói. Ðấy chính là “bí mật”!

Nay chỉ tám chữ “chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn” chính là pháp môn bí mật để gỡ niêm cởi trói, là đường lớn thênh thênh để thoát sanh tử.

Sáng niệm, chiều niệm, đi niệm, ngồi niệm, niệm niệm liên tục tự thành tam muội, chứ đừng có cầu cái gì khác nữa!

Tâm vốn chẳng sanh do duyên hợp mà sanh. Tâm vốn chẳng chết, do duyên tan lìa nên chết. Tựa hồ có sanh tử, nhưng vốn chẳng đến đi. Lãnh hội được điều này thì sanh thuận, tử an, thường tịch, thường chiếu.

Nếu như chưa làm được như thế thì nên buông bỏ toàn thân, khăng khăng trì một câu A Di Ðà Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Giả sử các duyên chưa hết, thọ mạng chưa dứt thì càng phải nên niệm Phật, sẽ có lợi ích lớn. Cổ đức bảo: “Pháp môn Niệm Phật là thuật trường sanh của đấng Kim Tiên”. (1)

Sanh tử chẳng lìa nhất niệm, thậm chí vạn hạnh dù thế gian hay xuất thế gian đều chẳng lìa khỏi một niệm. Nay dùng cái niệm ấy để niệm Phật thì sẽ thiết tha, gần gũi, tinh chuyên, chơn thật xiết bao? Nếu truy xét chỗ bắt nguồn của cái niệm ấy thì nó chính là tự tánh Di Ðà, chính là ý sang Tây của Tổ Sư.

Dù cho chẳng ngộ được, cứ nương theo nguyện lực vãng sanh Cực Lạc, cắt ngang sanh tử, chẳng thọ luân hồi thì rốt cục sẽ đại ngộ!

Xin hãy buông bỏ vạn duyên, trong mười hai thời, niệm niệm khăng khăng thì đấy chính là điều tôi rất mong mỏi.

Bảy mươi tuổi từ xưa đã hiếm, sống trăm năm có được mấy người! Nay trong lúc tuổi xế chiều đây chính là lúc buông bỏ hoài bão, thấy rõ thế gian hệt như một trường hý kịch, chẳng hề chơn thật. Chỉ còn một câu A Di Ðà Phật để đắp đổi tháng ngày, chỉ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới làm quê nhà mình: nay ta niệm Phật, mai sau sanh về Tây phương. Còn gì hay hơn, hãy nên vui mừng lớn lao, đừng sanh phiền não!

Giả sử gặp phải chuyện chẳng như ý hãy liền xoay chuyển ý niệm, gấp rút đề cao câu niệm Phật này, hồi quang phản chiếu: ta là người sống trong thế giới của Phật A Di Ðà lẽ nào còn thấy biết như người trong thế gian mà nóng giận, vui vẻ; chỉ nhất tâm niệm Phật.

Ðấy chính là pháp môn đại an lạc, đại giải thoát của những người trí huệ.

Nguyên do của bịnh tật phần nhiều là do sát sanh; bởi thế, ta nên thiên trọng phóng sanh. Bên ngoài càng thêm sám, trong tâm tự hối, công đức rất nhiều.

Xin hãy để tâm trống trải, quét sạch hết thảy các duyên. Trong cái tâm rỗng rang đó chỉ niệm một câu A Di Ðà Phật.

Nói niệm Phật đó thì bất tất phải nhếch mép, động lưỡi; chỉ lặng lẽ dùng tâm nhãn phản chiếu từng chữ phân minh, từng câu tiếp nối từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, tâm tâm chẳng hề gián đoạn.

Nếu có đau khổ thì cứ nhẫn nại, nhất tâm nghĩ đến câu niệm. Kinh dạy: “Chí tâm niệm Phật một tiếng diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”; bởi thế, công đức niệm Phật rất lớn lao vậy.

Kẻ học Phật chẳng cần phải trang nghiêm hình dáng, chỉ quý tu hành chơn thật:

Hàng tại gia cư sĩ chẳng cần phải áo sồng, khăn đạo.

Người còn để tóc có thể mặc thường phục niệm Phật, chẳng nhất thiết phải gõ mõ, đánh trống.

Người thích yên tịnh có thể tự lặng lẽ niệm Phật, chẳng nhất thiết phải quây quần lập hội.

Người ngại việc cứ tự đóng cửa niệm Phật, chẳng cần phải vào chùa nghe kinh.

Người biết chữ có thể tự tuân theo giáo pháp niệm Phật.

Ngàn dặm thiêu hương chẳng bằng ngồi yên trong nhà niệm Phật.

Cung phụng thầy tà chẳng bằng hiếu thuận mẹ cha niệm Phật.

Giao du rộng rãi với bè bạn ma chẳng bằng một thân thanh tịnh niệm Phật.

Gởi tiền kho kiếp sau chẳng bằng hiện đời làm phước niệm Phật.

Van vái, cầu đảo chẳng bằng hối lỗi sửa mình niệm Phật.

Tu học theo kinh sách ngoại đạo chẳng bằng một chữ không biết nhưng niệm Phật.

Vô tri bàn xằng lẽ Thiền chẳng bằng ròng chắc, già dặn trì giới, niệm Phật.

Mong cầu yêu mỵ linh ứng chẳng bằng chánh tín nhân quả niệm Phật.

Nói tóm lại, đoan chánh tấm lòng, diệt ác thì người niệm Phật như thế gọi là thiện nhân. Nhiếp tâm trừ bỏ tán loạn thì người niệm Phật như thế gọi là hiền nhân. Ngộ tâm đoạn hoặc thì người niệm Phật như thế gọi là thánh nhân.

Khuyên người cực nhàn hạ hãy niệm Phật: cưới gả đã xong, con cháu đã yên bề gia thất, an nhàn vô sự; đây đúng là lúc nên tận tâm, tận lực mỗi ngày niệm mấy ngàn câu cho đến cả vạn câu.

Khuyên người lúc bận lúc rảnh hãy niệm Phật: xong việc một nửa hay chưa xong, dù bận hay rảnh, tuy chưa cực nhàn, vẫn có thể lúc bận thì lo lắng công việc, lúc rảnh bèn niệm Phật. Mỗi ngày niệm mấy trăm câu, cho đến mấy ngàn câu.

Khuyên người bận rộn cùng cực hãy niệm Phật: siêng lo việc nước, bôn ba gia nghiệp, dẫu chẳng có lúc thảnh thơi, nhưng cần phải dành lấy rảnh rang trong khi bận rộn để niệm Phật. Mỗi ngày sáng sớm hành Thập Niệm cho đến niệm mấy trăm câu trong cả ngày.

Pháp môn Niệm Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng niệm Phật được!

Nếu là người phú quý, của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật.

Nếu là kẻ bần cùng, nhà hẹp, của ít thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu là người có con cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật.

Nếu là người không con, trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có con hiếu thuận, yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật.

Nếu ai có con ngỗ nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật.

Nếu ai vô bịnh, thân thể khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có bịnh, rất gần cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai già cả, tháng ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai tuổi trẻ tinh thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật.

Nếu ai an nhàn, tâm không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật.

Nếu là người bận rộn, được đôi lúc nhàn giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu là người xuất gia, tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu là kẻ tại gia biết cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai thông minh, thông hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật.

Nếu là kẻ ngu si, thô lỗ, không làm gì khác nổi thì thật đúng là nên niệm Phật.

Nếu ai trì luật mà Luật lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật.

Nếu ai đọc kinh thì kinh là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai tham thiền, do Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai ngộ đạo thì ngộ cần phải được Phật chứng cho nên càng phải niệm Phật.

Khuyên khắp mọi người hãy cấp bách niệm Phật. Chín phẩm vãng sanh, hoa nở thấy Phật, gặp Phật nghe Pháp, rốt ráo thành Phật mới biết rằng tâm vốn dĩ là Phật.

Chỉ cần niệm Phật, tôn xưng đã thành quy kính. Sáu chữ, bốn chữ thật chẳng sai khác gì. Có điều là do pháp truyền lâu ngày hóa tệ, biến thành lê thê: khua chiêng, thúc trống, như xướng, như ca, thổn thức, rên siết như gào, như quát; thiên nhĩ nghe thấy chẳng buồn bã hay sao?

Nhưng dù là xưng danh một cách hoan hỷ hay nóng nảy cũng vẫn gieo trồng nhân lành, quả báo tương lai chẳng thể nghĩ bàn. Kẻ phàm tình mê muội chứ người trí thì biết rõ!

Nhận định:

Người biết chữ có thể tự tuân theo giáo pháp niệm Phật, chẳng luận là sự trì hay lý trì, chỉ cốt chuyên chí bất nhị, niệm niệm tiếp nối thì sẽ tự thành tam muội, chẳng cần phải cầu được khẩu truyền, tâm truyền; nhưng chẳng được chấp lý phế sự, chiêu cảm cái họa đọa lạc!
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:56 am

10. Trích yếu Mộng Du Tập của đại sư Hám Sơn Ðức Thanh đời Minh

Phật dạy pháp tu hành thoát sanh tử có nhiều môn phương tiện, chỉ có pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ là thiết yếu, nhanh tắt nhất.

Kinh dạy: “Muốn tịnh cõi Phật thì nên tịnh tự tâm” nên nay tu hành Tịnh nghiệp phải lấy tâm trong sạch làm gốc.

Muốn tịnh cái tâm mình thì điều trước tiên là giới căn phải thanh tịnh vì ba điều ác nơi thân, bốn điều ác nơi miệng, ba điều ác nơi ý chính là mười nghiệp ác tạo thành khổ nhân của tam đồ.

Ðiểm cốt yếu của trì giới là trước hết phải tam nghiệp thanh tịnh thì tự tâm thanh tịnh. Thân chẳng giết, trộm, dâm thì thân nghiệp sẽ thanh tịnh. Miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, ác khẩu thì khẩu nghiệp sẽ thanh tịnh. Ý chẳng tham, sân, si thì ý nghiệp sẽ thanh tịnh. Dứt vĩnh viễn mười điều ác như thế thì tam nghiệp trong suốt như băng. Ðấy là yếu quyết để tịnh tâm.

Trong cái tâm thanh tịnh ấy, nhàm chán nỗi khổ Sa Bà, phát nguyện vãng sanh An Dưỡng, lập chánh hạnh Niệm Phật.

Ðiều cốt yếu của Niệm Phật là tâm thiết tha: trước hết phải đoạn ngoại duyên, chỉ vâng giữ nhất niệm, lấy một câu A Di Ðà Phật làm mạng sống, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng đoạn.

Trong mười hai thời, đi, đứng, nằm, ngồi, cầm muỗng, co tay, gập, xoay, cúi, ngửa, động, tịnh, rảnh, bận, trong hết thảy lúc chẳng ngu, chẳng muội, không có các duyên khác.

Dụng tâm như vậy lâu ngày thuần thục; thậm chí trong mộng cũng chẳng quên mất. Ngủ hay thức giống hệt nhau thì công phu miên mật đúc thành một khối. Ðấy là lúc đã đắc lực vậy.

Nếu niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì khi mạng chung, cảnh giới Tịnh Ðộ hiện tiền, tự nhiên chẳng bị sanh tử giam cầm nên cảm được Phật A Di Ðà phóng quang tiếp dẫn. Ðấy chính là cách hiệu nghiệm để nhất định được vãng sanh.

Tu Huệ bằng quán tâm; tu phước nơi vạn hạnh. Quán tâm lấy niệm Phật làm quan trọng nhất, vạn hạnh lấy hạnh cúng dường làm đầu. Hai điều ấy bao gồm hết thảy.

Trong hết thảy những việc làm hằng ngày của chúng ta, khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng, là gốc sanh tử; cho nên chiêu lấy quả khổ. Nay đem cái tâm vọng tưởng chuyển thành tâm niệm Phật thì mỗi niệm trở thành cái nhân Tịnh Ðộ, tạo thành quả vui.

Nếu niệm Phật tâm tâm chẳng dứt thì vọng tưởng tiêu diệt, tâm quang phát lộ, trí huệ hiện tiền, trở thành Pháp Thân của Phật.

Sở dĩ chúng sanh bần cùng không phước huệ là do đời đời, kiếp kiếp chưa từng một niệm cúng dường Tam Bảo để cầu phước huệ, chỉ lăm lăm vì cái thân sanh tử khổ sở, niệm niệm mong cầu sự vui ngũ dục để vun bồi cội khổ.

Nay đem cái tâm tham cầu cho mỗi một mình ta chuyển thành tâm cúng dường Tam Bảo, đem cái thân mạng hữu hạn nương theo sức mạnh của tâm cúng dường mười phương thì dù chỉ cúng một nén hương, một cành hoa, một hạt gạo, một cọng rau, phước ấy cũng vô tận!

Vì vậy, cảm được Phật quả, Hoa Tạng trang nghiêm tạo thành cảnh thọ dụng của chính thân mình trong tương lai. Bỏ qua những điều này thì không hạnh mầu nhiệm nào khác để thành Phật nữa cả!

Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là muốn rốt ráo đại sự sanh tử. Nếu chẳng biết cội gốc sanh tử thì biết hướng về đâu để giải quyết trọn vẹn cho được? Cổ nhân nói:

Nghiệp chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà;
Ái chẳng đoạn chẳng sanh Tịnh Ðộ.

Thì biết là Ái chính là cội rễ của sanh tử. Từ khi có sanh tử đến nay, đời đời kiếp kiếp xả thân, thọ thân đều là trôi lăn theo ái dục.

Nay niệm Phật thì trong từng niệm phải đoạn ái căn ấy; tức là trong những cảnh duyên tiếp xúc hiện hữu hằng ngày, người tại gia niệm Phật mắt nhìn thấy con cái, cháu chắt, gia duyên, tài sản, không gì là chẳng yêu mến; không một niệm nào, không một sự gì chẳng phải là kế sách để tăng trưởng sanh tử.

Ngay trong lúc niệm Phật nếu trong tâm chưa từng có một niệm buông bỏ được ái căn thì như vậy chỉ càng niệm Phật, ái chỉ càng thêm lớn.

Nếu như có lúc khởi tâm quyến luyến con cái thì hãy hồi quang xem xét một câu niệm Phật có thật sự địch nổi ái niệm ấy hay không? Có thật sự đoạn nổi ái đó hay không? Nếu chẳng thể thật sự đoạn nổi ái ấy thì làm sao rốt ráo thoát khỏi sanh tử được nổi?

Do ái duyên quen thói đã từ nhiều đời, còn niệm Phật thì chỉ mới phát tâm nên còn sơ sài. Lại do niệm Phật chẳng chơn thật, thiết tha nên chẳng đủ sức. Nếu chẳng thể khống chế nổi ái cảnh hiện tiền thì lúc lâm chung sẽ chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền, trọn chẳng thể làm chủ cảnh duyên được nổi!

Vì thế khuyên người niệm Phật:

Ðiều quan trọng nhất là tâm sanh tử tha thiết. Muốn thiết tha đoạn cái tâm sanh tử tha thiết, trong mỗi niệm phải đoạn dần gốc sanh tử thì mỗi niệm đều là lúc liễu sanh tử.

Nghĩa là: Những việc trước mắt đều là chuyện sanh tử, trước mắt thấu rõ sanh tử là không.

Niệm niệm chơn thành, thiết tha như thế; [giống như] từng nhát dao cắt xuống đều tuôn máu. Nếu [tu tập như thế mà] chẳng được thoát khỏi sanh tử thì chư Phật đều mắc tội vọng ngữ hết!

Học đạo chẳng có tài khéo chi khác, chỉ cốt biến cái sống thành cái chín, biến cái chín thành cái sống; lâu ngày thuần thục đúc thành một khối: niệm niệm Di Ðà, khắc khắc Cực Lạc.

Kẻ học đạo hiểu biết thiển cận chỉ biết tham cầu lẽ huyền diệu, chẳng biết hướng ngay đến chỗ căn bổn để dốc cả tánh mạng ra hạ thủ công phu. Gặp phải cảnh vinh, nhục, họa hoạn, sanh tử liền thấy chân tay cuống quít. Ðấy chẳng những là đã dối người mà còn là tự lừa mình nữa!

Cội gốc của sanh tử chính là các thứ vọng tưởng hằng ngày của chúng ta: ta - người, ghét, yêu, tham, sân, si v.v… Các nghiệp phiền não nếu còn mảy may chưa dứt thì sẽ trở thành cội gốc sanh tử.

Nếu ai muốn tham thiền đốn ngộ giải thoát sanh tử thì xin hãy tự xét sức mình thật sự có thể trong một niệm đoạn ngay được phiền não trong bao kiếp như cắt đứt mớ tơ rối hay không?

Nếu chẳng đoạn nổi phiền não thì dù có đốn ngộ cũng trở thành ma nghiệp, há có nên xem thường ư!

Xét ra, chư Tổ đốn ngộ đều là do đã tích lũy công hạnh, tu hành dần dần trong nhiều đời nên mới đốn ngộ một chốc. Nói dễ chứ thật rất khó, chứ nào có phải là một dạ công phu trong vòng hai, ba mươi năm là sẽ có thể ngay trong phiền não nhất niệm đốn ngộ được đâu! Cần phải biết rõ căn khí của mình như thế nào.

Còn như một môn niệm Phật thì người đời chẳng biết chỗ nhiệm mầu của nó, coi là thiển cận, chứ thật ra môn niệm Phật bước nào cũng đạp lên Thật Ðịa! Vì sao vậy?

Do vì bọn ta từ lúc có cuộc sống đến nay, niệm niệm vin níu vọng tưởng, tạo nghiệp sanh tử, chưa hề một niệm hồi quang phản chiếu tự tâm, chưa hề có một niệm chịu đoạn phiền não. Nay nếu thật có thể chuyển cái tâm vọng tưởng thành tâm niệm Phật thì niệm niệm đoạn trừ phiền não.

Nếu niệm niệm đoạn được phiền não thì niệm niệm thoát sanh tử. Nếu thật sự có thể nhất niệm niệm Phật chẳng thay đổi, nhất tâm bất loạn thì so ra còn hơn là tham thiền vì tham Thiền còn có thể bị đọa lạc.

Nói chung, chỉ cốt ở chỗ nhất niệm chân thành, thiết tha mà thôi!

Nhưng tham Thiền thì nhất định phải diệt sạch cái tâm thế gian, chẳng dung một niệm vọng tưởng. Còn niệm Phật là dùng tịnh tưởng để hoán chuyển nhiễm tưởng, dùng tưởng trừ tưởng. Căn khí của bọn chúng ta có thể thực hành pháp thay đổi này dễ dàng!

Tu Tịnh Ðộ bất tất cầu minh tâm ngộ tánh, chỉ chuyên lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh. Lại lấy bố thí, trai Tăng, công đức tu các phước để giúp trang nghiêm cõi Phật.

Trong tâm niệm Phật, tuy phải phát nguyện vãng sanh, nhưng nếu biết đoạn cái gốc sanh tử trước thì mới có công năng mau chóng.

Gốc sanh tử chính là lòng tham đắm các thứ thọ dụng trong thế gian, sắc đẹp, tiếng dâm, vị ngon sướng miệng, hết thảy đều là gốc khổ; cũng như hết thảy các tâm sân nộ, phẫn hận, chấp trước, si ái.

Ðối với hết thảy pháp tà giáo do bọn thầy ma tà ngoại đạo rao truyền đều phải tận tình mửa ra hết, chỉ dốc lòng tin một môn niệm Phật. Mỗi ngày tụng kinh A Di Ðà hai lượt, niệm Phật mấy ngàn câu; hoặc chẳng kể đến số, chỉ tâm tâm chẳng quên Phật hiệu.

Phật là Giác. Nếu niệm niệm chẳng quên Phật thì niệm niệm minh giác. Nếu tâm quên Phật thì là bất giác. Nếu niệm đến mức trong mộng vẫn niệm Phật thì chính là thường giác bất muội.

Nếu hiện tại tâm này bất muội thì lúc lâm chung tâm này bất muội, tức là những cảnh lầm lạc của tâm này sẽ bị rơi rớt mất.

Nay việc nước đa đoan vạn mối quyết định chẳng thể tham thiền, chỉ có niệm Phật là tốt nhất, chẳng nệ nhàn, rảnh, động, tịnh, ở hết thảy chỗ nào cũng niệm được. Chỉ là nhất tâm chẳng quên chứ không có cách hay khéo nào khác cả!

Tham Thiền cần phải lìa tưởng; niệm Phật lại chuyên tưởng. Vì chúng sanh trầm luân trong vọng tưởng đã lâu nên lìa vọng tưởng thật khó. Nếu có thể biến đổi nhiễm tưởng thành tịnh tưởng thì đó là dùng độc trị độc, là cách thay đổi mà thôi. Vì thế, tham cứu khó ngộ, niệm Phật dễ thành.

Nếu tâm thật sự khẩn thiết vì lẽ sanh tử, dùng cái tâm tham cứu niệm Phật thì còn lo chi trong một đời chẳng giải thoát nổi sanh tử nữa?

Niệm Phật chính là tham thiền, nào phải là hai pháp. Nghĩa là:

Trong lúc niệm Phật, trước hết, tưởng hết thảy phiền não, vọng tưởng, tham, sân, si, ái, các thứ ý niệm tạp loạn trong lòng mình đều buông bỏ hết, buông bỏ đến mức không còn gì để buông bỏ nữa. Chỉ đề khởi mỗi một mình câu A Di Ðà Phật vằng vặc phân minh chẳng đoạn trong tâm giống như sợi chỉ xuyên suốt qua từng hạt châu. Lại giống như mũi tên khi cắm ngập [vào đích] chẳng hở trống mảy may nào!

Dốc sức vào định như thế, trong hết thảy nơi chẳng bị cảnh duyên lôi kéo, đánh mất. Ðối với mọi sự động tịnh hằng ngày chẳng bị tạp loạn, ngủ thức đều giống hệt như nhau. Niệm cho đến lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn thì chính là lúc siêu sanh Tịnh Ðộ vậy.

Trong pháp môn này:

- Thứ nhất là chí phải quyết định.

- Thứ hai là phải buông xuống được.

- Thứ ba là thuận theo duyên, tùy duyên mới an mạng được.

- Thứ tư là phải thật sự nhẫn nại thì mới chẳng bị lầm lạc.

- Thứ năm là phải khẩn thiết chán khổ. Tâm khẩn thiết chán khổ thì dục niệm mới tự trừ, chẳng bị lui sụt.

Ðấy chính là năm bí quyết để giữ vững mỗi một mình nhất niệm.

Cách thức tu hành cũng có thứ tự giống như thời khóa công phu của chư Tăng vậy; nhưng chẳng cần phải rập theo khuôn sáo:

Lấy niệm Phật làm chính; mỗi ngày sáng dậy lễ Phật liền tụng một cuốn kinh Di Ðà, lần chuỗi niệm danh hiệu Phật ba hoặc năm ngàn tiếng, hoặc một vạn tiếng.

Niệm xong đối trước Phật hồi hướng, phát nguyện vãng sanh cõi kia. Ðó là khóa tụng buổi sáng; buổi chiều cũng giống như vậy.

Hằng ngày lấy đó làm định khóa, nhất định chẳng để sót. Dùng pháp này dạy người trong nhà để cùng tu hành đúng pháp rất hay. Ðó là thường hạnh.

Nếu để lo cho đại sự sau cùng thì càng phải ra sức công phu khẩn thiết: mỗi ngày trừ hai thời công khóa ra, trong mười hai thời, chỉ giữ một câu A Di Ðà Phật ngang ngực, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm bất muội. Chẳng nghĩ ngợi gì đến hết thảy việc đời, chỉ lấy một câu Phật hiệu làm mạng sống của chính mình, cắn chặt nơi hàm răng quyết chẳng buông bỏ.

Thậm chí, trong lúc ăn uống, đứng lên, ngồi xuống, đi, đứng, nằm, ngồi, một câu Phật hiệu này luôn luôn hiện tiền. Dù gặp phải hoàn cảnh thuận, nghịch, vui, giận, phiền não, hay lúc tâm bất an, vẫn đem câu Phật hiệu ra ứng phó thì ngay khi ấy phiền não sẽ tự tiêu diệt.

Do phiền não trong mỗi niệm chính là gốc khổ sanh tử nên nay dùng niệm Phật để tiêu diệt phiền não thì đó chính là Phật độ chúng sanh thoát khỏi chốn khổ! Nếu niệm Phật tiêu được phiền não thì sẽ giải thoát sanh tử, chứ còn pháp nào khác đâu!

Nếu niệm Phật đến mức làm chủ được phiền não thì sẽ làm chủ được mộng mị. Nếu đã làm chủ được mộng mị thì sẽ tự chủ được trong khi bịnh khổ. Nếu đã tự chủ được trong khi bịnh khổ thì lúc lâm chung sẽ phân minh rành rẽ biết mình được sanh về đâu.

Làm được việc này chẳng khó, chỉ cốt một dạ khẩn thiết vì sanh tử, nương tựa một cách quyết định duy nhất vào câu Phật hiệu, không còn mong mỏi, nghĩ đến gì khác! Lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc tự tại, được đại hoan hỷ thọ dụng, ngũ dục thế gian không thể nào sánh được.

Ngoài cách này thì không còn cách nào ngắn gọn, thẳng tắt hơn được nữa!

Nhận định:

Muốn rốt ráo sanh tử, tâm cần phải khẩn thiết lo sanh tử mà trước hết là cần phải đoạn trừ cội ái của sanh tử. Nhưng ái là thói quen của nhiều đời nên chẳng dễ đoạn; người nhập môn hạ thủ công phu cần phải biến chỗ sống thành chỗ chín, biến chỗ chín thành chỗ sống (2). Lâu ngày thuần thục thì niệm cực, tình không, ái căn tự đoạn. Các cội gốc sanh tử khác như các thứ vọng tưởng hằng ngày, các phiền não nghiệp như: ta, người, đúng, sai, tham, sân, si, mạn v.v… chẳng mong đoạn trừ mà tự nhiên đoạn trừ!
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:57 am

11. Trích yếu sách Linh Phong Tông Luận của đại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh

Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là một môn bao hàm trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chứ chẳng phải là đề cao một môn, phế bỏ trăm môn khác.

Nhưng cần phải thâm nhập một môn, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, còn hết thảy các môn Giới, Ðịnh, Huệ khác là Trợ Hạnh.

Thực hành cả Chánh lẫn Trợ giống như thuyền đã đi thuận gió, còn kéo căng giây lèo, chóng đến được bờ.

Pháp Niệm Phật tuy nhiều, nhưng Trì Danh là giản tiện nhất. Pháp Trì Danh cũng nhiều, nhưng pháp Trì Danh Nhớ Số là ổn đáng. Người thực hành chơn thật, thuần thục nào có mong làm khác kẻ ngu phu, ngu phụ đâu?

Ðể thoát khỏi nhà lửa tam giới có hai đường dọc và ngang:

a. Dùng tự lực để đoạn hoặc, vượt khỏi sanh tử thì gọi là vượt tam giới theo chiều dọc (thụ xuất tam giới), khó tu, kết quả chậm chạp.

b. Nương Phật lực tiếp dẫn sanh về Tây phương thì gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều ngang (hoành xuất tam giới); dễ hành, kết quả nhanh chóng.

Tổ Huệ Viễn nói: “Có công năng cao, dễ tấn tu thì niệm Phật làm đầu”. Kinh dạy: “Ðời mạt ức ức người người tu hành, hiếm có một ai thành đạo. Chỉ có ai tu theo pháp Niệm Phật mới có thể được độ thoát”như giong thuyền vượt biển, chẳng mất công sức.

Ai có thể dốc lòng tin tưởng vào đường tắt Tây Phương, chí thành phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh thì thật đúng là bậc đại trượng phu.

Còn nếu như lòng tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng khẩn thiết, hành chẳng tận sức, dẫu Phật đã sắp sẵn thuyền đại từ nhưng chúng sanh chẳng chịu xuống thuyền thì Phật còn biết làm thế nào được nữa?

Muốn mau thoát nỗi khổ luân hồi thì không có chi bằng pháp Trì Danh Niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Muốn quyết định sanh về thế giới Cực Lạc thì lại không có chi bằng lấy Tín để dẫn đường, dùng Nguyện để thúc đẩy.

Tin quả quyết, nguyện khẩn thiết thì dù tán tâm niệm Phật cũng chắc chắn được vãng sanh. Tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù có nhất tâm bất loạn cũng chẳng được vãng sanh!

a. Thế nào là Tín?

- Một là tin vào nguyện lực của Phật A Di Ðà.

- Hai là tin lời dạy của Phật Thích Ca Văn.

- Ba là tin lời khen ngợi của sáu phương chư Phật.

Nếu chẳng tin nổi những điều ấy thì thật chẳng còn cách nào cứu nổi. Vì thế, trước hết phải sanh lòng tin sâu xa, chớ khởi nghi hoặc.

b. Thế nào là Nguyện?

Trong mọi lúc đều nhàm chán nỗi khổ sanh tử cõi Sa Bà, hoan hỷ ngưỡng mộ niềm vui Bồ Ðề chốn Cực Lạc. Hễ làm việc gì hoặc thiện hoặc ác; nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, còn ác thì sám nguyện cầu vãng sanh, không còn chí nào khác. Ðấy gọi là Nguyện.

c. Tín Nguyện cùng đủ rồi thì lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy cải ác tu thiện làm Trợ Hạnh. Tùy theo công sức cạn hay sâu sẽ chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, chẳng sai sót mảy may! Chỉ nên tự mình suy xét lấy, chẳng cần phải hỏi người khác nữa! Nghĩa là:

Tin sâu, nguyện thiết niệm Phật mà lúc niệm Phật tâm hay tán loạn thì sẽ đạt hạ phẩm hạ sanh.

Tán loạn giảm thiểu thì là hạ phẩm trung sanh.

Không còn tán loạn sẽ là hạ phẩm thượng sanh.

Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc về ba phẩm trung sanh.

Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, trong ba thứ kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, tùy ý đoạn trước một thứ và cũng đoạn trừ được vô minh thì sẽ sanh trong ba phẩm thượng sanh.

Vì vậy, tín nguyện trì danh niệm Phật sẽ thuộc trong chín phẩm là điều đích xác chẳng sai!

Thêm nữa, tín nguyện trì danh: tiêu trừ nghiệp chướng, mang theo hoặc chướng đi vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.

Ðoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc mà vãng sanh thì chính là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.

Phá nát một phần vô minh mà vãng sanh thì chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

Trì đến mức rốt ráo, đoạn sạch vô minh rồi vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.

Vì thế, Trì Danh có thể đạt đến bốn cõi Tịnh Ðộ cũng là chuyện đích xác chẳng sai lầm!

Hỏi: Trì danh như thế nào để có thể đoạn được vô minh?

Ðáp: Ðối với danh hiệu của đức Phật được trì, chẳng cần biết là ngộ hay chưa, không gì chẳng phải là nhất cảnh tam đế. Cái tâm trì niệm chẳng cần biết là đã đạt hay chưa, không gì chẳng phải là nhất tâm tam quán. (3)

Chỉ vì chúng sanh vọng tưởng chấp trước, tình kiến phân biệt nên mới chẳng khế hợp nổi Viên Thường; họ nào biết Năng Trì (tâm trì niệm danh hiệu Phật) chính là Thỉ Giác, Sở Trì (đức Phật được ta trì niệm) chính Bổn Giác.

Nay cứ thẳng một bề trì niệm, ngoài việc trì niệm nào có đức Phật, ngoài đức Phật nào có trì niệm, Năng lẫn Sở bất nhị thì Thỉ Giác khế hợp Bổn Giác, gọi là Cứu Cánh Giác.

Pháp môn Niệm Phật chẳng có gì là kỳ đặc, chỉ quý ở chỗ tin tới nơi, giữ cho ổn, cứ thẳng một đường mà niệm, hoặc là ngày đêm niệm mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn, lấy con số nhất định chẳng khuyết làm chuẩn.

Trong suốt một ngày, niệm ra tiếng đến tàn một cây hương, rồi niệm thầm đến tàn một cây hương. Cứ xoay vần không gián đoạn [như thế], lấy Nhất Tâm Bất Loạn làm hạn. Suốt cả đời này thề không biến cải. Nếu chẳng được vãng sanh thì tam thế chư Phật đều nói dối. Một khi đã được vãng sanh sẽ vĩnh viễn không bị thối chuyển, các thứ pháp môn đều được hiện tiền.

Kỵ nhất là hôm nay Trương Tam, ngày mai Lý Tứ, gặp người tu theo Giáo môn liền toan tầm chương trích cú. Gặp kẻ tu Thiền bèn nghĩ chuyện tư duy, tham cứu, vấn đáp. Gặp người trì Luật lại nghĩ chuyện đắp y, trì bát.

Ðấy chính là kẻ chẳng rõ đầu mối, chẳng tỏ lớp lang, chẳng hề biết rằng niệm A Di Ðà Phật đến mức thuần thục thì giáo lý tối cực thuộc mười hai bộ của Tam Tạng đều nằm gọn trong ấy, một ngàn bảy trăm công án là cơ quan để hướng thượng cũng nằm gọn trong ấy, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ luật nghi cũng nằm gọn trong ấy.

Có thể thật sự niệm Phật, chẳng khởi tham, sân, si nữa thì đó chính là Ðại Trì Giới. Chẳng phân biệt ta-người, đúng-sai chính là Ðại Nhẫn Nhục. Chẳng chút gián đoạn, lai tạp chính là Ðại Tinh Tấn. Chẳng còn rong ruổi theo vọng tưởng chính là Ðại Thiền Ðịnh. Chẳng bị các thứ ngoắt ngoéo mê hoặc chính là Ðại Trí Huệ.

Hãy thử tự kiểm điểm: Nếu thân, tâm, thế giới còn chưa buông xuống được, tham, sân, si còn tự phát khởi, thị-phi nhân-ngã còn ôm giữ; gián đoạn, xen tạp còn chưa trừ sạch, vọng tưởng rong ruổi còn chưa vĩnh viễn diệt hết, các thứ ngoắt ngoéo khác vẫn còn mê hoặc được ý chí thì chẳng phải là chơn thật niệm Phật.

Muốn đạt đến cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn thì biện pháp ban đầu là dùng xâu chuỗi để ghi nhớ phân minh, khắc định thời khóa quyết định chẳng thiếu. Lâu ngày thuần thục chẳng niệm mà tự niệm thì sau đấy nhớ số cũng được, chẳng nhớ số cũng xong.

Nếu là kẻ sơ tâm mà lại thích bàn chuyện khán thoại đầu, muốn chẳng chấp tướng, muốn học viên dung tự tại thì toàn là kẻ tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức, dẫu có giảng được mười hai phần kinh giáo, hiểu nổi một ngàn bảy trăm chuyển ngữ (công án Thiền) thì cũng đều là chuyện thuộc về sanh tử, lúc lâm chung cũng nhất định vô dụng mà thôi!

Nhận định:

Tổ đã minh thị: Tín Nguyện Trì Danh sẽ đạt đến cửu phẩm và bốn cõi Tịnh Ðộ. Nếu như Tín chẳng chơn thật, Nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù Nhất Tâm Bất Loạn cũng chẳng được vãng sanh.

Lời dạy này thật là thiết yếu; hãy nên tín sâu, nguyện thiết để thẳng đường mà niệm. Niệm đến mức rốt ráo thì vô minh đoạn sạch sẽ vãng sanh về cõi Thường Tịch Quang.
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:58 am

12. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Cảnh Ngữ của đại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh

Niệm Phật cần phải có lòng tin chơn thật:

a. Một là tin rằng tâm, Phật, chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt. Ta là Phật chưa thành, Phật Di Ðà là vị Phật đã thành, giác tánh vô nhị. Ta tuy hôn mê, điên đảo, sai lầm nhưng giác tánh chẳng hề mất. Ta tuy luân chuyển bao kiếp nhưng giác tánh chưa hề động. Vì thế mới nói: “Ðừng khinh kẻ chưa ngộ, nhất niệm hồi quang sẽ cùng chứng đắc cái ta sẵn có”.

b. Kế đến, cần phải tin rằng ta là Lý Tánh Phật, danh tự Phật; Di Ðà là Cứu Cánh Phật, tánh tuy không hai, nhưng địa vị sai khác một trời, một vực!

Nếu chẳng chuyên niệm đức Phật kia để cầu sanh về cõi ngài ắt sẽ bị lưu chuyển theo nghiệp, chịu khổ vô lượng. Nói cách khác: Pháp Thân lưu chuyển trong năm đường chẳng được gọi là Phật, mà gọi là chúng sanh!

c. Ba là cần phải tin rằng ta tuy chướng sâu nghiệp nặng, ở trong khổ thành đã lâu, nhưng là chúng sanh ở trong tâm của đức Di Ðà; Di Ðà tuy là vạn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười vạn ức cõi nhưng vẫn là đức Phật trong tâm ta.

Tâm, tánh đã là vô nhị thì tự nhiên cảm ứng đạo giao, tâm khổ thiết của ta ắt cảm, tâm từ bi của Phật ắt ứng như nam châm hút sắt, chẳng còn ngờ chi.

Ðầy đủ những lòng tin chơn thật như vậy thì dù một mảy thiện, một phước nhỏ như hạt bụi đều có thể đem hồi hướng về Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Ðộ. Huống hồ là trì trai, giữ giới, phóng sanh, bố thí, đọc tụng Ðại Thừa, cúng dường Tam Bảo, các thứ hạnh lành lại chẳng đủ để làm tư lương Tịnh Ðộ hay sao?

Chỉ vì tin chẳng chơn thật nên bị chìm trong hữu lậu. Vì thế, ngày nay tu hành chẳng có yếu thuật nào khác cả; chỉ cốt trong mười hai thời, thêm vào ba thứ lòng tin chơn thật ấy thì chẳng cần phải thay đổi hết thảy điều gì mình đang tu tập cả.

Nếu luôn luôn nghĩ lo việc Sa Bà, một ngày nóng mười ngày lạnh, tâm chẳng chuyên dốc, lúc gặp ngũ dục thì như keo như sơn, gặp phải nghịch cảnh bèn kết oán, ôm hận. Ðến lúc mạng chung sẽ ngả theo chỗ mình coi nặng, vì Tịnh nhân nhỏ yếu nên khó thoát khỏi chốn khổ. Ðấy chỉ là do chẳng thể bỏ xuống những cái mình xem nặng.

Ai nấy nên đau đáu nghĩ đến Sa Bà hiểm ác, sớm cầu xuất ly. Bò lê trong lục đạo, tiêu dao nơi chín phẩm, [hai đường] lợi hại [khác xa nhau] một trời một vực. Hãy nên tu tập nỗ lực, mạnh mẽ tỉnh ngộ!

Ắt nên sanh lòng chán, ưa lớn lao, bỏ uế lấy tịnh; tin rằng sự lấy bỏ này và sự chẳng lấy bỏ vốn chẳng khác gì nhau.

Ðừng chuộng hư danh, đừng chấp Không Kiến, chớ để kẻ học Thiền có danh phận nhưng chỉ chứng đắc tam muội nơi cửa miệng làm mình lầm loạn. Chớ cầu sự linh nghiệm ngay trong sớm tối, vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động. Luôn lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, siêng tu các điều thiện làm Trợ Hạnh.

Lại còn quyết ý mài giũa tham, sân, si, khiến cho chỗ nặng biến thành chỗ nhẹ, chỗ sống chín dần, tịnh niệm nối tiếp, nguyện - hạnh hỗ trợ nhau thì tự nhiên trăm ngàn phần ổn thỏa, thích đáng vậy!

Kính khuyên các bạn: Cần phải có đủ nguyện chơn thật, phát tâm ưa - chán, coi tam giới như lao ngục, coi nhà, vườn như gông cùm, coi thanh sắc như chất độc của loài chim Trầm, coi danh lợi như dây cương, ống khóa, coi mấy mươi năm thời vận cùng thông như giấc mộng đêm qua, coi một kỳ thọ báo trong cõi Sa Bà như ngụ trong quán trọ: vừa hết đêm đã rời đi.

Chỉ lấy việc trở về nhà làm trách nhiệm. Như ý cũng được, bất đắc ý cũng xong, chẳng bỏ lỡ tấc bóng, nhất tâm niệm Phật.

Nếu thật sự có thể làm được như thế mà chẳng sanh về Tịnh Ðộ thì chư Phật đều thành nói dối. Xin hãy cùng gắng lên!

Bảy ngày trì danh quý ở chỗ Nhất Tâm Bất Loạn, không gián đoạn, không xen tạp, chứ chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều là hay!

Chỉ nên chẳng rề rà, chẳng gấp gáp, trì danh nghiêm mật khiến cho câu Phật hiệu phân minh vằng vặc trong tâm. Mặc áo, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi; một câu hồng danh miên mật chẳng đoạn giống như thở ra, hít vào. Chẳng được tán loạn, nhưng cũng chẳng để chìm mất. Trì danh như thế thì đáng gọi là đạt nhất tâm tinh tấn về mặt Sự!

Hiện thời, Tịnh nghiệp học nhân suốt ngày niệm Phật, sám hối tội lỗi, phát nguyện mà Tây phương vẫn cách xa là do chưa thể giữ sao cho ngoài chuyện vãng sanh không còn nghĩ chuyện gì khác, chưa nhổ được gốc ái, để dây tình còn lôi kéo vậy!

Nếu có thể coi chuyện ân ái cõi Sa Bà như nhai sáp; chẳng quản bận, rảnh, động, tịnh, khổ, sướng, buồn, vui, cứ dựa vào một câu Phật hiệu hệt như dựa vào núi Tu Di thì hết thảy cảnh duyên chẳng lay động nổi.

Nếu lúc nào biết mình đang mệt mỏi, lười biếng hoặc là tập khí hiện tiền hãy nên mạnh mẽ phát khởi một niệm như tuốt thanh trường kiếm Ỷ Thiên khiến ma quân không chỗ ẩn trốn, cũng như hỏa lò rực lửa khiến cho vô thỉ tình thức tiêu tan không sót!

Người ấy tuy đang ở trong chốn ngũ trược mà thân đã nghiễm nhiên ngồi trong cõi Liên Hoa, nào còn phải đợi đức Di Ðà xòe tay, đức Quán Âm khuyên mời mới tin là mình đã vãng sanh nữa!

Nhận định:

Trì danh chẳng cốt niệm nhanh, niệm nhiều là hay, nhưng chẳng nên [nại cớ đó để] tà tà, lơi là. Cổ đức trì danh ngày đêm cả một vạn biến, há chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều đó sao?

Câu “chớ cầu chóng có linh nghiệm, đừng vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động” để dạy riêng người tu quán tưởng. Nếu gặp phải ma sự thì nên đề khởi chánh niệm, thầm trì Phật hiệu, vì tà chẳng thắng nổi chánh nên ma sự ắt tiêu diệt, chẳng cần lo sợ.
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 9:59 am

13. Trích yếu Pháp Ngữ của đại sư Phạm Thiên Tỉnh Am Tư Tề đời Thanh

[Trích từ] thư viết cho cư sĩ Mâu Tịnh Viễn:

“Cư sĩ dựng cầu xong có thể nói là không công nào lớn hơn, nhưng tâm cư sĩ ham làm lành không chán; vừa xong một việc lành này đã làm ngay việc lành khác, đã hay càng hay hơn! Còn việc lớn sanh tử thì như thế nào?

Nếu chẳng coi việc lớn sanh tử là gấp, cứ cắm cúi làm lành thì sự lành dù to như núi Tu Di cũng đều là nghiệp duyên sanh tử cả, biết đến ngày nào xong? Thiện sự càng lắm, sanh tử càng rộng! Một niệm ái tâm bao kiếp trói buộc, có đáng sợ chăng?

Cư sĩ tham cứu thấu đạt công án thế gian từ lâu, đã tu tập Tịnh nghiệp Tây Phương từ lâu, nhưng cái tâm sanh tử chẳng thiết, gia duyên chưa buông xuống được, tạ tuyệt nhân tình chưa nổi, tâm niệm Phật chẳng chuyên là vì sao vậy? Vì gốc lợi danh chưa đoạn chăng? Vì ái niệm lôi kéo, ràng buộc chăng?

Ðối với hai điều ấy, ông nên để tâm suy xét kỹ. Nếu như chẳng thể chặt đứt hết thảy gia duyên, thế sự, tận lực vâng giữ sáu chữ hồng danh mà mong thoát khỏi Sa Bà, mong sanh về An Dưỡng thì khó lắm đấy!

Chẳng sanh về An Dưỡng mà muốn thoát khỏi sanh tử; đã chẳng thoát khỏi sanh tử mà muốn khỏi bị đọa lạc thì xét ra càng khó hơn nữa! Ví dù một đời, hai đời chẳng đánh mất thân người, liệu có kham nổi mãi không?

Than ôi! Cư sĩ huệ tâm lanh lợi, sáng suốt như thế, gia duyên sung túc như thế, con cháu hiền năng như thế, việc gì cũng vừa ý mà còn chẳng thể buông nổi vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì là trời phụ người hay người đã phụ trời vậy?

Chẳng lấy việc niệm Phật làm gấp, chỉ lấy chút điều lành nhỏ trong đời làm gấp, chẳng lấy việc lớn sanh tử làm đầu, chỉ coi phước báo nhân thiên là trọng thì là hạng chẳng hiểu trước, sau vậy!

Tuy cư sĩ chẳng cầu phước nhưng thường làm phước, tuy muốn thoát sanh tử nhưng lại bị trở vào trong sanh tử đều là do ông chẳng biết rằng mình đã lơ là cõi kia, đặt nặng cõi này đến nỗi bánh xe đã xoay ngang mà vẫn cứ mong tiến lên được!

Bây giờ, việc chính của cư sĩ là nên tạ tuyệt việc đời, nhất tâm niệm Phật, kèm thêm hai chữ “trì trai” mới thật là tận mỹ!

Nói chung, chẳng thể dùng tán thiện khơi khơi để đạt đến cõi Phật Tây Phương, chẳng thể cậy vào lười biếng để thoát khỏi vạn kiếp sanh tử được! Vô thường nhanh chóng, ngày đêm tới ngay, há chẳng sớm lo liệu hay sao?

Nhận định:

Tạ tuyệt việc đời nhất tâm niệm Phật kiêm thêm hai chữ “trì trai” chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của hạng người già niệm Phật chúng ta vậy!
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Quảng Nghiêm Mon 30 May 2011, 10:01 am

KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT

Đời Tấn, Ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.

PHẨM THỨ NĂM
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG

Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh

- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"

Đức Phật mỉm cười lặng yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.

Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy, trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:

- "Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.

- Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.

Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa. Tại sao vậy ?

Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A-la-hán.

Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm tâm. Luôn luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ ... Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không khác.

Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.

Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.

Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.

Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà chánh, thiện ác, chân ngụy ... nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.

Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.

Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.

Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở ... đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh Pháp-Nhẫn.

Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chính tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.

Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên chân thật.

Vì sao vậy ?

Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh hiệu Phật là Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng ... Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó gọi là tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác.

Dùng pháp nào để Tri ? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật ?

Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết "nhứt thiết pháp là Không" khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.

Tiếp tục xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào Viên-giác-tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười phương.

Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.

Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí, Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục ... nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.

Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lương, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Đại-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.

Nguồn: http://www.adidaphat.info/35.html
Quảng Nghiêm
Quảng Nghiêm
Admin

Leo
Dragon
Tổng số bài gửi : 1011
Join date : 19/05/2011
Age : 47
Đến từ : TPHCM

Về Đầu Trang Go down

NIỆM PHẬT CHỈ NAM Empty Re: NIỆM PHẬT CHỈ NAM

Bài gửi by Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết